Đọc “Bên Thắng Cuộc” của Huy Đức
Trần
Bình Nam
Huy Đức, tên thật là Trương Huy San,
sinh năm 1962 tại Hà Tĩnh, năm nay 51 tuổi. Khi những chiếc xe tăng đầu tiên
của quân đội Cộng sản Bắc Việt xô sập cổng Dinh Độc Lập tại Sài gòn và chấm dứt
cuộc nội chiến ông mới lên 13, một tuổi còn quá nhỏ để hiểu ý nghĩa lịch sử của
nó.
Ông nhập ngũ năm 17 tuổi và trở thành sĩ quan, công tác một thời
gian tại chiến trường Cambodia, trước khi trở về làm báo. Năm 2005, ông được chính quyền Hà Nội gởi đi tu nghiệp
tại Maryland, Hoa Kỳ. Năm 2006 về nước, tiếp tục làm báo. Năm 2012 ông lại được
gởi qua đại học Harvard, một đại học nổi tiếng tại Hoa Kỳ để nghiên cứu về
“phân tích chính trị”. Gởi học viên đi
tu nghiệp tại các nước tư bản là một phần trong chương trình đào tạo chính quy
các nhà lãnh đạo tương lai tại Trung quốc khi thế giới bước vào kỷ nguyên “toàn
cầu hóa” (1). Ông Huy Đức đang ở Hoa Kỳ khi cho xuất bản bộ sách
“Bên Thắng Cuộc”
Theo tác giả, khi có cơ hội tiếp cận
với miền Nam, ông –cũng như bà Dương Thu Hương – nhận thấy miền Nam không giống
gì với những điều đảng Cộng sản Việt Nam đã dạy dỗ ông. Từ giữa thập niên 1980,
vừa làm báo ông vừa để tâm thu thập tài liệu để viết một tài liệu về cuộc chiến
Việt Nam để tự trả lời các thắc mắc của chính mình đối với các hiện tượng chính
trị và xã hội trước mắt. Và công việc biên soạn này trở thành một thúc bách khi
tình hình khối Cộng sản quốc tế biến chuyển một cách căn bản .
Tại Liên bang Xô viết, Gorbachev đề ra
chương trình cởi mở chính trị “glasnost” và cải tổ hành chánh “perestroika” đưa
đến sự sụp đổ của Đông Âu. Năm 1986 tại Đại Hội 6, đảng Cộng sản Việt Nam quyết
định “đổi mới”. Và cuối thập niên 1980
Liên bang Xô viết sụp đổ, đảng Cộng sản Liên xô bị giải tán.
Huy Đức có cơ hội và được phép sưu tầm
tài liệu cũng như tiếp xúc và phỏng vấn các nhân vật chính yếu của chế độ cho thấy anh được khuyến khích và giúp đỡ.
Một luồng tư tưởng mới hay một sáng kiến ở sau lưng dự án?
Bộ sách “Bên Thắng Cuộc” hoàn tất năm
2012 được Huy Đức trình bày thành 2 cuốn. Cuốn I “Bên thắng Cuộc: Giải phóng”, cuốn II “Bên Thắng Cuộc: Quyền bính”. Hai cuốn sách gộp lại dày 1000 trang
cỡ chữ 11, gồm 22 Chương, 195 Danh Mục Tác phẩm và 52 Hồi ký, Bản thảo truyền
tay trong nước được dùng để tham khảo, với 1262 mục chú thích . Phần chú thích
(Cuốn I 82 trang, cuốn II 66 trang) tổng cộng 148 trang là một phần không thể
tách rời với bộ sách. Tác giả để riêng ra để cho phần trình bày có tính liên
tục.
Bộ sách của Huy Đức là một tác phẩm đồ
sộ. Đồ sộ ở bề dày của nó đã đành, nó còn “đồ sộ” ở chỗ tác giả của nó là một người Cộng sản nhưng không viết
để ca ngợi chiến thắng và tuyên truyền cho tính vô địch của chủ thuyết Mác- Lê
Nin.
Cuốn sách là một tài liệu lịch sử mặc
dù tác giả không trình bày dưới lăng kính của một nhà viết sử. Tác giả đóng vai
một bác sĩ giải phẫu mổ xẻ một cơ thể, trình ra những sự kiện lịch sử có chứng
liệu. Trong đó những nhân vật lịch sử suy nghĩ, hành xử và thao tác trước thực
tế khách quan.
Cuốn sách trình bày một cuộc sống lịch
sử có tính nhân sinh sống động. Qua đó người đọc đôi khi thấy quy luật của cuộc
sống át hẵn quy luật lịch sử. Ông Võ Văn Kiệt, ông Đỗ Mười, ông Lê Duẫn …, ông
Nguyễn Văn Thiệu, ông Kissinger … , ông
Võ Nguyên Giáp , ông Văn Tiến Dũng … tuy
vẫn còn là những Thủ tướng, những Tổng Bí thư, Tổng thống, Cố vấn chính trị …,
những ông Tướng … nhưng chính yếu dưới ngòi bút của Huy Đức là những con người
bằng xương bằng thịt lấy những quyết định lịch sử của mình liên quan đến cái
sống và cái chết của hằng trăm ngàn người khác như một con người trước thực tế
sinh động và hạn chế của nó.
Những ai quan tâm đến những biến
chuyển của lịch sử diễn ra trên đất nước chúng ta trong 60 năm qua tìm thấy qua
bộ sách “Bên Thắng Cuộc” một bức tranh hậu trường trọn vẹn bên phe xã hội chủ
nghĩa. Tác giả gạn lọc và trình bày một bức tranh nối kết sự kiện này với sự kiện khác một cách nhân
quả (causal). Đối với các nhà nghiên cứu, cuốn sách cung cấp những sử liệu về
người và việc từ trước đến nay không có sẵn
sàng như vậy.
Cuốn “Bên Thắng Cuộc” là một cuốn sách
nói về những cay đắng của người thắng cuộc. Thắng xong mới thấy mình mới là kẻ
bại trận. Cuốn sách cũng chứa đựng những oái oăm của cuộc sống . Chỉ riêng mối
tình của Lê Duẫn với bà Nguyễn Thụy Nga người vợ thứ do Đảng cưới cho ông tại
Cà Mâu năm 1948 trong thời gian chống Pháp đã có đủ chất liệu cho một thiên
tình sử. Ông Duẫn có những ngày hạnh phúc với bà Nga khi ông còn lãnh đạo phong
trào Cộng sản ở miền Nam trước Hiệp Định Geneve năm 1954. Năm 1957 khi ông được
điều ra Bắc trở thành Bí thư thứ nhất của đảng với quyền uy chính trị chỉ sau
ông Hồ Chí Minh ông đã không bảo vệ nổi bà Nga trước lối sống công thức giữa
một thủ đô vừa lấy lại trong tay người Pháp và áp lực của người con gái lớn của
bà vợ cả. Bà Nga được gởi đi học và sống một mình ở Trung quốc 5 năm, sau đó
trở lại miền Nam tham gia cuộc đấu tranh chống chính quyền miền Nam. Vợ ông Võ
Văn Kiệt, bà Trần Kim Anh và hai con nhỏ bị bom chết năm 1966 trên đường di
chuyển từ Bến Cát đến căn cứ Củ Chi ông Kiệt gặp khó khăn trong đời sống gia
đình cho mãi đến năm 1984 khi cưới bà Phan Lương Cầm, con ghẻ tướng Phan Tử
Lăng và vẫn không yên với dư luận vì bà Cầm quá mới! Tách chúng ra khỏi cuốn
sách đó là những mối tình rất con người. Nó bị cọ xát và đày đọa bởi chiến
tranh, phân ly, ghen tuông, quyền lực và phong tục tập quán.
Tôi còn nhớ một bi kịch xẩy ra tại
trại cải tạo Lam sơn, trong tỉnh Khánh
hòa khi tôi đang bị giam tại đó cuối năm 1975 giữa một cán bộ Cộng sản và một
Trung úy quân đội Việt Nam Cộng Hòa trẻ tuổi. Trong một buổi lên lớp khi người
cán bộ xỉ vả học viên là phản bội tổ quốc, viên Trung úy đứng lên nói, anh
không phản bội ai cả. Anh nói: “Nếu Mẹ
tôi sinh tôi ra trên vĩ tuyến 17 thì bây giờ tôi cũng đang đứng chỗ của anh và
có thể đang mắng nhiếc anh là phản quốc.” (2)
Trong thời gian sau cuộc cách mạng
tháng 8/1945, người Pháp trở lại, nhưng một số vùng như Thanh-Nghệ -Tỉnh, Bình
Định-Phú Yên, Cà Mâu -Đồng Tháp vẫn nằm trong vòng kiểm soát của phe kháng
chiến do đảng Cộng sản lãnh đạo, và nhiều thanh niên vì điều kiện địa lý này đã
ở bên này hay bên kia và có khi anh em một nhà biến thành kẻ thù bắn giết nhau.
Bên thắng hay bên thua chỉ là ngẫu nhiên của lịch sử và may mắn hay rủi ro của
từng số phận. Cái còn lại là cái tâm.
Nhưng có cái tâm tốt chưa chắc vượt ra
khỏi nghịch cảnh. Sau năm 1975 ông Võ Văn Kiệt giữ chức vụ lãnh đạo tại Sài
gòn- Gia Định ông cũng phải ngăn sông cấm chợ để cho dân Sài gòn nằm trên vựa
lúa mà đói. Guồng máy buộc ông làm vậy nếu ông không muốn bị kết án là phản
cách mạng, phản bội nguyên tắc kinh tế tập trung xã hội chủ nghĩa! Nhưng ít
nhất ông Kiệt còn trăn trở tìm lối thoát ra khỏi cái gông tự tròng vào cổ mình
của đảng. Bên cạnh còn biết bao kẻ tầm
thường tin tưởng tuyệt đối chủ thuyết Mác Xít: Đỗ Mười, Võ Chí Công, Đào Duy
Tùng, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh … Thật khó mà định giá những nhân vật như Hồ
Chí Minh, Lê Duẫn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng. Lê Đức Thọ … để biết họ muốn
gì. Họ là những tay “ma nớp” quyền lực như một thú vui trong khung cảnh lịch sử
mà họ đang sống?
Huy Đức vẽ con người rất con người và các
sử gia nếu muốn nghiên cứu các lãnh tụ
Cộng sản Việt Nam thì bộ sách của Huy Đức là một nguồn tài liệu phong phú muôn
màu muôn vẻ.
Nhưng nét nổi bật nhất của bộ sách là
đường nét ngây ngô của bộ máy Đảng. Cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản, ngăn
sông cấm chợ, sở hữu công của tư liệu sản xuất, đất đai thuộc về toàn dân là
những nhát búa đảng Cộng sản tự đập vào chân mình.
Bộ sách “Bên Thắng Cuộc” cho thấy
trong thập niên 1980 đảng Cộng sản Việt Nam đã vùng vẫy để thoát hiểm trước cơn
giông tố đang làm lung lay tận gốc phong trào cộng sản thế giới. Gorbachev tại
Liên xô. Đặng Tiểu Bình ở Trung quốc với “mèo
trắng mèo đen mèo nào cũng tốt miễn là bắt được chuột”. Thắng cuộc, nhưng
Việt Nam phải “đổi mới” để tồn tại.
Nhưng “đổi mới” mà không có chính sách. Chỉ có những bước mò mẫm trong sương mù
của “kinh tế thị trường” không định hướng,
ngoại trừ “định hướng xã hội chủ nghĩa” để níu kéo lĩnh vực quốc doanh
cứu đảng.
Kết quả duy nhất của sự đổi mới mà vẫn
duy trì chế độ độc đảng là làm cho dân “có gạo ăn” nhưng không xây dựng được
tiềm năng của quốc gia. Chính sách của quốc gia dựa vào trí tuệ giới hạn nếu
không muốn nói là kém cỏi của “Bác”, của anh “Ba”, anh “Sáu”, anh “Mười” … một
cách rất là tùy tiện.
Bộ sách của Huy Đức có một nét đặc thù
là không những bày ra cái yếu kém của chủ nghĩa Mác, mà còn bày ra cái yếu kém
của người Việt Nam. Người Việt Nam thông minh, nhưng thiếu cái nhìn lớn và vọng
ngoại. Dân khổ triền miên vì vậy.
Nhìn bộ sách đồ sộ của Huy Đức khó mà
nghĩ một cách đơn giản rằng đó là thành quả của một cá nhân. Huy Đức dù xông
xáo cũng khó tiếp cận với tài liệu nhất là tiếp cận phỏng vấn các nhân vật đang
nắm quyền lực mà thói quen sinh hoạt của đảng là mật, cái gì cũng là mật.
Năm 1967 bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ
Robert McNamara trong khi điều hành cuộc chiến Việt Nam nhận ra sự phi lý của
cuộc chiến mà quốc gia và cá nhân ông đang vướng vào, ông kín đáo cho lập một
Ủy ban nghiên cứu các biến chuyển từ năm 1945 dẫn đến cuộc chiến tranh. Tài
liệu nghiên cứu được gọi là “Hồ sơ của
Lầu Năm Góc” (The Pentagon Papers). Bộ sách của Huy Đức có nét tương tự của
Pentagon Papers. Phải chăng mục đích của bộ sách là thu thập dữ kiện một cách
khách quan để tìm ra nguyên ủy của các mâu thuẫn ngự trị trên đất nước Việt
Nam? Cái khác bề ngoài phải chăng là công việc truy tìm này được giao phó cho
Huy Đức như một nghiên cứu cá nhân?
Bộ sách của Huy Đức phanh phui ra các
dữ kiện tự nhiên từ việc này dẫn đến việc khác cho thấy tại sao chúng ta là nạn
nhân. Nạn nhân của hoàn cảnh lịch sử, nạn nhân của các tranh chấp quốc tế, và
trên hết là nạn nhân của chính tầm nhìn kém cỏi của chúng ta.
Nếu tài liệu “The Pentagon Papers” đã
giúp cho nhân dân Hoa Kỳ vượt qua “Hội
chứng Việt Nam” để nhanh chóng hóa giải căng thẳng và sự chia rẽ trong xã hội
do cuộc chiến Việt Nam gây ra thì bộ sách “Bên
Thắng Cuộc” của Huy Đức cũng có thể là một liều thuốc hóa giải sự chia rẽ
dân tộc Việt Nam giữa người thắng kẻ thua.
Câu hỏi then chốt là chúng ta đã sẵn
sàng để hòa giải với nhau chưa?
Trong phần kết thúc cuốn sách tác giả kết
luận: “Giá như không phải là ý thức hệ mà
tự do và hạnh phúc của nhân dân là nền tảng hình thành chính sách của đảng Cộng
sản Việt Nam, đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo, thì người dân
đã tránh được chuyên chính vô sản, tránh được cải cách ruộng đất, cải tạo tư
sản, tránh được “Nhân Văn Giai Phẩm, tránh được biết bao cuộc binh đạo xung đột
trong nội bộ gia đình”.
Và giờ đây đảng Cộng sảnViệt Nam vẫn
còn duy trì Điều 4 Hiến pháp nắm trọn quyền lãnh đạo đất nước, đảng vẫn chưa
trả quyền tự do ngôn luận cho dân, đảng vẫn còn ràng buộc với ý thức hệ Mác xít
chưa chịu trả quyền tư hữu và quyền sở hữu đất đai lại cho dân thì rõ là chưa
có cơ hội hòa giải dân tộc .
Nhưng con đường thiên lý nào cũng phải
bắt đầu bằng dặm đầu tiên. Bộ sách “Bên
Thắng Cuộc” của Huy Đức là bước bắt đầu và là một bước tích cực của quá trình hoà giải dân tộc.
Trần Bình Nam
Jan 23, 2013
Chú thích:
(1)
Theo The Life of the Party: The Post Democratic
Future Begins in China của Eric X. Li – “Foreign Affairs” Jan - Feb. 2013
(2)
Cán bộ trại đã phạt nhốt viên Trung úy vào thùng sắt, loại connex quân đội Mỹ dùng chuyên chở quân
dụng.