Bộ trưởng quốc phòng Chuck Hagel &
chế độ quân dịch
Trần Bình Nam
Ngày 31/1/2013 Ủy ban Quân vụ Thượng
Viện đã chất vấn cựu Thượng nghị sĩ Chuck Hagel trước khi bỏ phiếu đề nghị
Thượng Viện phê chuẩn (hay không phê chuẩn) ông Chuck Hagel vào chức vụ Bộ
trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ theo sự bổ nhiệm của tổng thống Obama.
Cuộc chất vấn gay gắt vì những tiếng
nói mạnh mẽ phản đối sự bổ nhiệm đều do các Thượng nghị sĩ Cộng Hòa cùng đảng
với ông Chuck Hagel. Hai Thượng nghị sĩ John McCain (Cộng Hòa – Arizona) và
Lindsey Graham (Cộng Hòa – South Carolina) chọc mũi dùi vào lập trường của ông
Chuck Hagel đối với cuộc chiến tại Iraq, đối với Iran và nhất là đối với ảnh
hưởng của Do thái đối với quốc hội và chính trường Mỹ. Các vị Thượng nghị sĩ
của đảng Cộng Hòa thừa biết rằng đảng Dân Chủ đang nắm đa số tại Thượng Viện
nên trước sau Thượng Viện cũng phê chuẩn sự bổ nhiệm ông Chuck Hagel bởi tổng
thống Obama .
Nhưng đảng Cộng Hòa chất vấn ông Chuck
Hagel với mục đích chận trước khuynh hướng “không
giống chính sách của đảng Cộng Hòa” của ông Chuck Hagel. Dùng một kỹ
thuật “thiếu quân tử”, Thượng nghị sĩ
John McCain yêu cầu ông Chuck Hagel trả lời bằng “Đúng” hay “Sai” nếu nhìn lại
biểu quyết chống “đưa thêm quân sang Iraq”(gọi là “surge”) của Thượng nghị sĩ
Hagel năm 2007 khi quân đội Hoa Kỳ đang gặp khó khăn tại đó. Quyết định đưa
thêm quân này do Thượng nghị sĩ John McCain đề nghị và đã cứu vãn được sự thất
bại của Hoa Kỳ tại Iraq để sau đó có thể an toàn rút quân như Hoa Kỳ đã thực
hiện cuối năm 2011.
Thượng nghị sĩ John McCain nhiều lần
ngắt lời không cho Thượng nghị sĩ Chuck Hagel trả lời bằng cách giải thích, vì
nếu được giải thích ắt ông Chuck Hagel sẽ trả lời rằng biểu quyết “chống” của ông “không đúng mà cũng chẳng sai” vì thực tế cho thấy Hoa Kỳ đã thất
bại đối với toàn bộ cuộc chiến tại Iraq, một cuộc chiến đắt giá về tiền bạc và
nhân mạng mà Thượng nghị sĩ John McCain đã hết mình cổ võ.
Thượng nghị sĩ Lindsey Graham cái loa
của Do Thái tại Thượng Viện đã đi xa hơn. Sau cuộc điều trần, trong khi ủy ban
Quân vụ Thượng Viện đang cứu xét ông lớn tiếng đề nghị tổng thống Obama rút lại
sự bổ nhiệm ông Chuck Hagel. Lời kêu gọi này hàm ý hăm dọa nếu tổng thống không
rút, ông có thể dùng thủ tục “filibuster”
để ngăn cản sự biểu quyết của khoáng đại Thượng Viện. Toàn là những cú đánh độc
để làm giảm uy tín của ông Chuck Hagel.
Nhưng hãy đi vào chuyện thực tế. Sau
khi ngồi yên ở ghế Bộ trưởng quốc phòng ông Chuck Hagel cần làm những gì ? Ông
Harlan Ullman, Chủ tịch Kilowen Group,
một tổ chức chuyên nghiên cứu các kế hoạch cố vấn cho các chính phủ trên thế
giới, các nhà kinh doanh và là Group cố
vấn chính yếu của Atlantic Council
tại Washington D.C. trong một bài xã luận ngày 6/2 nhan đề “The
Trials of Chuck Hagel” chủ trương rằng:
Trong 3 mục tiêu trong chương trình
làm việc của ông Chuck Hagel gởi đến Ủy ban Quân vụ Thượng Viện trước cuộc điều
trần là:
(1) Giữ cho Afghanistan ổn định sau
khi Hoa Kỳ rút quân vào giữa năm 2014.
(2) Duy trì khả năng kỹ thuật vũ khí
của quân đội Hoa Kỳ, và
(3) Ổn định an sinh của binh sĩ,
Ông Ullman đề nghị ổn định an sinh và
cải thiện điều kiện sinh hoạt và chiến đấu của binh sĩ cần được đưa lên hàng
đầu. Qua 12 năm chiến tranh tinh thần binh sĩ đã mỏi mệt cần được chăm sóc hơn.
Ông nhận xét rằng hiện nay trong cơ cấu nhân sự tại Bộ quốc phòng không có ai ở
cấp thứ trưởng lo cho an sinh của binh sĩ.
Ngoài ra ông Ullman đề nghị ông Chuck
Hagel hãy cùng tổng thống Obama xét lại chính sách “chuyển hướng sang Á châu”.
Ông cho rằng sự chuyển hướng quá sớm làm cho đồng minh của Hoa Kỳ từ ven Đại
Tây Dương lên đến eo biển Bering và bên Âu châu lo lắng một cách không cần
thiết.
Sau cùng ông Ullman cho rằng dù vấn đề
ngân sách và giảm thâm thủng được quốc hội và tòa Bạch Ốc giải quyết như thế
nào, ngân sách quốc phòng cũng sẽ bị cắt giảm và ông tân bộ trưởng cần có kế
họach thích ứng cho một quân đội “nhà nghèo”. Ông Ullman nhận xét rằng Bộ quốc
phòng Hoa Kỳ có nhiều chuyên viên “tiêu tiền” nhưng không có chuyên viên “tiết
kiệm tiền”.
Về chương trình duy trì khả năng vũ
khí ông Ullman đồng ý với Ông Chuck Hagel, nhưng ông nhấn mạnh rằng Bộ quốc
phòng cần hướng vào sự phát huy trí tuệ về chiến lược toàn cầu cũng như chiến
thuật để đáp ứng nhanh chóng nhu cầu của tình thế trong tương lai.
Ông Ullman trưng dẫn hai tác
phẩm: (1) cuốn “Dereliction of Duty” của H.R. McMaster và (2) cuốn “Bureaucracy Does its Thing” của cựu đại
sứ Robert Komer viết về nguyên nhân thất bại tại Việt Nam của Hoa Kỳ là do sự chểnh mảng trong nhiệm vụ và nạn nhân của bộ máy thư lại để cảnh giác
hai ông John Kerry (Bộ trưởng Bộ Ngoại giao) và Chuck Hagel cả hai người từng
tham chiến tại Việt Nam về sự nguy hiểm của thư lại và sự coi thường nhiệm vụ
công.
Tuy nhiên có một thiếu sót trong cuộc
điều trần ngày 31/1 và trong các đề nghị của ông Harlan Ullman là chính sách “quân dịch” không ai đề cập đến. Và đó
mới là mấu chốt của vấn đề nhân sự quốc phòng và sức mạnh tiềm tàng của một
quốc gia. Link: ( Hoa Kỳ và chế độ quân dịch )
Năm 2006 lúc chiến tranh Iraq đang ở
cao điểm, Dân Biểu Charles Rangel (Dân Chủ - New York, 1971 - 2010) đưa ra đề
nghị tái lập chế độ quân dịch và quốc
hội cũng như báo chí đã đáp ứng một cách lạnh nhạt. Nhưng đó là đề nghị hữu lý
nhất để giải quyết vấn đề nhân sự và nâng cao tinh thần quân đội. Hoa Kỳ từng
ban hành chế độ quân dịch trong thời gian có cuộc nội chiến (1861-1865), và
trong hai cuộc Thế chiến (Thế chiến I: 1914-1918, Thế chiến II: 1941-1945). Chế
độ này được tái thiết lập năm 1948 khi cuộc chiến tranh lạnh bắt đầu và chấm
dứt năm 1973 khi Hoa Kỳ ký hiệp định Paris và rút quân ra khỏi Việt Nam.
Trong 40 năm qua quân đội Hoa Kỳ gồm
toàn quân nhân tình nguyện. Thanh niên Hoa Kỳ chưa biết thế nào là quân dịch.
Ngay cả các chính trị gia cũng vậy, ngoài những vị cao niên trưởng thành trong
thời kỳ luật đó còn hiệu lực của những năm 1948 đến năm 1973.
Trong số người tình nguyện ngoài thành
phần sĩ quan thuộc con cái gia đình có truyền thống lãnh đạo quân đội hay các
thanh niên ưu tú chọn binh nghiệp để lập sự nghiệp, phần còn lại tình nguyện
nhập ngũ đa số thuộc tầng lớp có lợi tức thấp (một tỉ số rất nhỏ tình nguyện
nhập ngũ để phục vụ quốc gia như được ghi nhận sau cuộc khủng bố ngày
11/9/2001).
Chế độ quân đội chỉ gồm người tự
nguyện sẽ rất bình thường trong thời bình, nhưng khi có chiến tranh (như Hoa Kỳ
từ năm 2001 đến nay và còn tiếp diễn) có sự chết chóc thì chế độ tự nguyện vừa
hạn chế nhân lực quốc phòng vừa bày ra một sự bất công. Con nhà nghèo chết
ngoài chiến trường, vợ con nheo nhóc, trong khi con nhà giàu yên ổn trên ghế
đại học.
Chế độ một quân đội hoàn toàn tự
nguyện như hiện nay của Hoa Kỳ có dấu hiệu bất ổn. Qua sự điều quân chiến đấu
tại Iraq và Afghanistan người ta thấy nhiều đơn vị quân đội vừa hoàn tất một
vòng chiến đấu trở về chưa kịp hưởng những ngày đoàn tụ bên cạnh vợ con đã được
điều động trở lại chiến trường. Là quân nhân tình nguyện họ không có quyền than
vãn, đành khăn gói từ biệt vợ con lên đường. Các sĩ quan chỉ huy của họ cũng
vậy. Là quân nhân, tuân hành lệnh cấp trên họ cũng phải vui vẻ lên đường để làm
gương cho quân nhân dưới quyền. Nhưng gia đình họ cảm thấy có một cái gì không
ổn.
Đó là chưa nói đến các quân nhân trừ
bị. Họ được gọi nhập ngũ như giao kèo đã ký với chính phủ, nhưng họ đều có một
đời sống dân sự cần ổn định.Thế nhưng vừa từ chiến trường về đang lo sắp xếp trở
lại đời sống dân sự thì lại có lệnh gọi. Họ phải lên đường, dù vợ con nheo nhóc
và đời sống gia đình bị xáo trộn. Toàn bộ bức tranh là một cái gì thiếu công
bình cho những người lính tự nguyện và những quân nhân trong đội ngũ trừ bị. Có
chiến tranh có nghĩa là lúc tổ quốc lâm nguy, và trách nhiệm cầm súng là của
mọi người dân đâu phải chỉ riêng cho người tự nguyện hay quân nhân trừ bị!
Hiện nay cuộc chiến Iraq đã kết thúc,
cuộc chiến Afghanistan sắp tàn, nhưng tình hình trên thế giới (Á châu Thái Bình
Dương, Bắc Phi, Trung Đông) đều báo hiệu những bất ổn tiềm tàng và quân đội Hoa
Kỳ cần sẵn sàng ở thế mạnh để bảo vệ an ninh quốc gia và duy trì tư thế lãnh
đạo thế giới hơn bao giờ hết. Trên tất cả các chương trình của ông Chuck Hagel,
việc tái thiết lập chế độ quân dịch phải là cái xương sống của chính sách quốc
phòng của Hoa Kỳ./.
Trần
Bình Nam
Feb.
6, 2013