Trần Bình Nam
Chúng
tôi, một đoàn du khách 22 người từ nhiều
tiểu bang khác nhau ở Hoa Kỳ, hẹn gặp nhau tại phi trường John F. Kennedy (JFK
Airport) ở New York để cùng đáp chuyến bay số 84 của
hãng Delta Aitlines cất cánh lúc
10:35 tối ngày 25/11/2010 đi Cairo, thủ đô của Ai
Cập. Người Pháp gọi là “Le Caire”. Máy bay
đáp xuống phi trường Cairo lúc 4:25
chiều hôm sau, tổng cộng 12 giờ bay cộng với 7 múi giờ cách biệt giữa New York
và Cairo.
Cairo nằm trên hữu ngạn sông Nile,
trước khi tẽ ra nhiều nhánh như rẽ quạt mang phù sa thượng nguồn về thành lập
một vùng châu thổ phì nhiêu, cái nôi của nền văn minh Ai Cập cổ đại kéo dài hơn
5000 năm và là vựa lúa nuôi dân Ai Cập hôm nay. Đáy của châu thổ sông Nile áp
với bờ biển đông nam Địa Trung hải gần miền Trung Đông, nơi manh nha văn minh
nhân loại, trước cả nền văn minh lâu đời của Trung quốc, và là nơi diễn ra
những cuộc tranh chấp giữa các nền văn minh Ai Cập, Hy Lạp, La Mã, Thiên chúa
giáo và Hồi giáo.
Ai
Cập nằm trong lục địa châu Phi, nhưng có nhiều sắc thái của một nước Cận đông
hơn là sắc thái Phi châu của người da đen. Phía đông giáp Do Thái, Hồng Hải, và
giải đất Gaza. Phía nam giáp Soudan, phía Tây là Lybia và phía bắc là Địa Trung
Hải. Ai Cập có 75 triệu dân, theo đạo Hồi hệ phái Sunni 84%, 13.5 % theo Thiên
chúa giáo chính thống, 1.4% theo Thiên chúa giáo La Mã. Ba thành phố lớn là thủ đô Cairo 6.7 triệu dân, Alexandria 4.0 triệu dân và
Port Said 570.000 dân.
Ai
Cập là một nước có một nền văn minh lâu đời nhất thành hình như một quốc gia do
người Ai Cập tự cai quản cách đây 5000 năm và kéo dài gần 2.700 năm qua 31
triều đại nối tiếp nhau cho đến năm 332 trước công nguyên (332 B.C.). Thời gian 2.700 năm này được chia
thành 3 thời đại rõ nét: Cổ đại (Old Kingdom), Trung Cổ (Middle Kingdom) , và
Tân cổ (New Kingdom). Thời Cổ đại là thời kỳ người Ai Cập xây dựng các Kim tự
tháp. Thời Trung cổ họ phát triển điêu khắc. Thời đại Tân Cổ là thời đại người
Ai cập thiết lập đế quốc và cũng là thời
đại người Do Thái ồ ạt di cư đến Ai cập.
Vào
thế kỷ thứ 7 BC người Assyrian (một đế quốc nằm giữa hai con sông Tigris và
Euphrates hiện nay) xâm lăng Ai Cập và năm 525 BC Ba Tư (Iran ngày nay) thiết
lập một đế quốc tại đó. Đến năm 332 BC Alexander Đại đế từ Macedon (bây giờ là
Cộng Hòa Macedonia, ở phía bắc Hy Lạp, trước đây là một phần của lãnh thổ Nam
Tư) chiếm Ai Cập Năm 30 BC người La mã đến và cầm quyền cho đến năm 395 sau
Công nguyên (395 AD). Khi giáo hội Thiên chúa giáo chia thành 2 trung tâm quyền
lực, Ai Cập nằm dưới sự quản trị của trung tâm Constantinople. Năm 313 AD vua
Constantine cho phép Ai Cập thành lập giáo hội riêng gọi là Giáo hội Thiên chúa
giáo Ai Cập (Coptic Church).
Từ
thế kỷ thứ 7 người A Rập chiếm Ai Cập và biến Ai Cập thành một vùng nói tiếng
Arabic, hầu hết theo đạo Hồi trải qua các triều đại của các ông vua Umayyad ,
Abbasid, Fatimid , Mamluks kéo dài cho đến thế thế kỷ thứ 16.
Năm
1517 Ai Cập trở thành một phần của đế quốc Ottoman của Thổ Nhĩ Kỳ cho đến năm 1914 ngưòi Anh chiếm Ai Cập.
Năm 1922, bốn năm sau khi Thế chiến I chấm dứt người Anh thiết lập một chế độ
quân chủ lập hiến tại đó và trao trả độc lập cho Ai Cập một cách hình thức. Vị
vua bù nhìn cuối cùng là vua Farouk lên ngôi năm 1936 lúc mới 16 tuổi .
Năm
1952 tướng Mohammed Naguib lật đổ vua Farouk. Năm sau đại tá Nasser (Gamal
Abdul) lên thay và trở thành lãnh tụ uy tín của khối Hồi giáo dựa vào lập
trường chống Tây phương và nghiêng về chế độ xã hội trong cuộc chiến tranh lạnh.
Năm 1958 cùng với Syria đại tá Nasser thành lập nước A Rập thống nhất.
Đại
tá Nasser phát động cuộc chiến tranh 6
ngày năm 1967 đánh Do Thái nhưng thất bại làm Ai Cập mất bán đảo Sinai. Năm
1970 Nasser qua đời, Anwar Sadat thay thế và năm 1973 tấn công Do Thái để giành
lại bán đảo Sinai, nhưng cũng không thành công.
Năm
1979 Anwar Sadat thay đổi thái độ chính trị, và do tổng thống Jimmy Carter làm
trung gian dàn xếp, thương thuyết với Do Thái. Kết quả là thỏa ước hòa bình Ai
Cập – Do Thái ký tại Camp David công nhận Do Thái để đổi lấy bán đảo Sinai (dự
trù trao trả lại vào năm 1982).
Từ
phi trường Cairo về thành phố, sông Nile uốn khúc, trong xanh. Mặt nước phẳng
lờ hiền lành như sông Hương giang. Ai Cập và sông Nile là một. Không có sông
Nile thì không nền văn minh Ai Cập 5000 năm trước, với Kim tự tháp, đền đài
lăng tẩm, và cũng không có Ai Cập hôm nay.
Sông
Nile dài 6650 km là con sông dài nhất thế giới (sông Cửu Long dài 4350 km đứng
thứ 10 trong những con sông dài hơn 1000 km) và là con sông lớn duy nhất trên
thế giới chảy từ phía Nam đổ ra biển ở phương Bắc. Mùa mưa nước từ từ dâng lên
mang phù sa tấp hai bên bờ và tạo một châu thổ lớn phì nhiêu nhìn ra Địa Trung
Hải. Các thành phố và đền đài thành quách, Kim tự tháp của Ai Cập đều tụ họp chung
quanh hai bờ sông Nile kéo dài từ thành phố Cairo đến thành phố Abu Simbel sát
biên giới Soudan, còn lại là cát và cát của sa mạc Sahara phía đông ra tân Hồng
Hải và phía Tây ngút ngàn đến biên giới Lybia.
Sông
Nile tạo nên vựa lúa của Ai Cập như sông Cửu Long đối với Việt Nam, nhưng khác
ở chỗ sông Cửu Long nước đục và nước dâng vào mùa mưa không nhịp nhàng như sông
Nile.
Từ
ngàn xưa vào mùa nước lên nông dân ngưng đồng áng, và các vua chúa trưng dụng
nhân công để xây dựng đền đài. Nước sông dâng lên gíúp thuyền bè đến lấy đá từ
các núi đá và chở đển các vùng xây dựng.
Chuyến
bay số 84 bay theo một vòng tròn lớn băng qua Canada, Bắc Hải, Băng Đảo
(Iceland), Anh, Pháp, Ý, Hy Lạp, Địa Trung Hải trước khi đáp xuống Cairo. Trời
cuối thu ngày ngắn thành phố đã nhấp nháy lên đèn. Nhìn chung, thành phố xây
cất hổn độn và đa số nhà cửa còn dang dở. Gió mang cát từ sa mạc chung quanh
phủ lên thành phố một lớp bụi cát.
Cairo
do vua Menes xây dựng từ năm 3100 BC. Khi người Hy Lạp chiếm Cairo họ đóng bản
doanh phía tây ngạn sông Nile phía nam trung tâm Cairo 15 km và đặt tên là
Memphis.
Hai
ngày đầu ở Cairo chúng tôi đi thăm các công trình xây cất chung quanh thành phố
gồm vùng lăng mộ Sakkara ở Memphis chôn vùi dưới cát trong suốt 2000 năm trước
khi các nhà khảo cổ Âu châu phát hiện và biến thành một trung tâm du lịch. Công
trình nổi bật của Sakkara là Kim tự tháp bậc thang mộ của vua Djoser (2668 –
2649 BC) thuộc vương triều thứ 3 do kiến trúc sư Imhotep xây cất.
Rải
rác dọc sông Nile từ Cairo về hướng nam có hằng trăm kim tự tháp lớn nhỏ mồ
chôn của các vua chúa, hoàng hậu, hòang thân quốc thích của nhiều triều đại. Vĩ
đại nhất là 3 Kim tự tháp trong sa mạc Giza gồm Kim tự tháp của vua Khufu,
Khaefra và Menkaue và một Nhân Sư (Sphinx) khổng lồ xây dựng từ thế kỷ thứ 26
BC. Kim tự tháp Khufu là một trong 7 kỳ quan thế giới. Du khách nào trước khi
đến Ai Cập cũng từng nghe các Kim tự tháp Ai cập vĩ đại và huyền bí như thế
nào. Nhưng khi đứng trước chúng chúng ta không khỏi có một cảm giác ngây ngất
kỳ lạ làm ngưng đọng suy tưởng của chúng ta. Trời đất bỗng mênh mông hơn, con
người nhỏ bé hơn, và kẻ kiêu căng nhất cũng phải chùn lòng thấy sự kiêu căng
của mình là vô nghĩa .
Một du khách trong đoàn đã cảm hứng:
Nhìn
Kim tự tháp đứng uy nghi
Lòng
khách viễn du nghĩ ngợi gì?
.......................................................
Dâu
bể khác nào cơn gió thoảng
Kìa
bao danh lợi có còn chi!
ĐBC
Chữ viết của cổ Ai Cập cũng là một trong những
huyền bí khác. Ngày hôm nay Ai Cập dùng chữ Arabic. Nhưng từ ngàn xưa họ có một
thứ chữ viết gọi là Hyeroglyphic do
các nhà trí thức Ai Cập (gọi là Scribers) sáng chế gồm các hình vẽ tạo nên theo
âm thanh.
Vào
thế kỷ thứ 1 AD khi Thiên chúa giáo du nhập vào Ai Cập các tu sĩ Thiên chúa
giáo dùng mẫu tự Hy Lạp để viết tiếng Ai Cập với mục đích rao giảng Tân ước và
Cựu ước. Vào thế kỷ thứ 5 AD khi người A Rập xâm chiếm Ai Cập, chữ Hyeroglyphic biến mất. Một bản văn bằng
chữ Hyeroglyphic được tìm thấy tại
đền thờ nữ hoàng Isis vợ vua Osiris (380 – 343 BC) trên đảo Philae ở Aswan và
do nhà khảo cổ Pháp Jean Francois Champollion giải mã năm 1824.
Từ
Cairo chúng tôi bay đi Luxor cách
Cairo 700 km về phía nam nằm trên bờ đông sông Nile. Luxor, tiếng A rập có
nghĩa là “lâu đài” là nơi có nhiều di tích lịch sử nhất của Ai Cập, được xây
dựng khoảng năm 2000 BC và có đền thờ vua Amentohap III trị vì Ai Cập vào thế
kỷ thứ 15 BC. Đền thờ vua Amentohap III được xem là nơi linh thiêng nhất, các
vua chúa Ai Cập về sau thường phải vào đó để chính thức xưng vương.
Dưới
triều vua Ramses đệ nhị (Ramses II) thuộc vương triều thứ 19 (1279-1212 BC)
Luxor là thủ đô của một dế quốc Ai Cập thịnh vượng 1000 năm kéo dài từ sông
Euphrates (bây giờ thuộc Iraq) sang tận Nubia (nam Ai Cập) có rất nhiều di tích
lịch sử và là một nguồn phong phú để nghiên cứu lịch sử Ai Cập. Theo nhà khảo
cổ Champollion nghệ thuật điêu khắc Ai Cập dường như đã được bắt nguồn tại
Luxor.
Bên
kia sông Nile đối diện với Luxor là “Thung
lủng các nhà vua” (Valley of the Kings) gồm lăng tẩm của các vua Seti II,
Ramses III và Ramses IV. Các nhà khảo cổ tin rằng trong khối núi đá khổng lồ
của thung lũng còn nhiều mồ chôn các vua chúa và vương hầu Ai Cập. Cuộc đào xới
đang được tiếp tục trước mắt du khách.
Từ
Luxor chúng tôi xuống du thuyền xuôi nam dọc giòng sông Nile. Du thuyền có đầy
đủ tiện nghi, phòng ngủ rộng rãi, thức ăn tuyệt hảo, sân thượng mênh mông với
quầy rượu, hồ bơi, ghế ngồi ghế nằm ngắm cảnh dưới ánh nắng mặt trời mùa Thu
dịu dàng. Giòng sông phẳng lặng trong veo, hiền từ như “nữ tu sĩ” cứ thế đưa
chúng tôi vào trái tim của Ai Cập. Hai bên bờ sông chà là, ruộng vườn, nhà cửa
nhấp nhô thanh bình và sung túc.
Du
thuyền cặp bến Esna cách Luxor 50km đế lấy hành khách trước khi đến Edfu cách
Esna 40km. Edfu tọa lạc trên bờ Tây sông Nile có đền Horus thời đại Hy-La có
khắc nhiều văn bản cho biết lịch sử và sự hưng thịnh của các vương triều và văn
minh Ai Cập thời Ptolemaic (304 – 30 BC).
Du
thuyền tiếp tục xuôi nam qua vùng núi đá Gebel Silsika trên một khúc sông rộng
uốn khúc nên thơ đưa chúng tôi đến Kom Obo thăm đền Kom Obo và thành phố Aswan.
Đền
Kom Obo là một đền đôi gồm hai đền
nằm trong một kiến trúc chung. Một đền thờ thần
cá sấu Sobek và một đền thờ thần chim
ưng Horoeris. Bên trong đền thờ là các hình chạm trổ dụng cụ y khoa của nền
mổ xẻ cổ đại Ai Cập.
Aswan
ở phía nam Kom Obo 20km có đập Aswan nổi tiếng thế giới xây cất trong hai thập
niên 1960 và 1970 bởi đại tá Nasser, một người hùng của Ai Cập được nhân dân Ai
Cập kính mến. Đập Aswan là đối tượng tranh chấp giữa hai khối Tự do – Cộng sản
trong cuộc chiến tranh lạnh. Trong khi
xây cất các nước tây phương (Anh, Pháp,
Mỹ) không bằng lòng với chính sách thiên tả của Nasser đã ngưng viện
trợ, Nasser nhờ viện trợ của Liên bang Xô viết tiếp tục xây cất. Tại đó hiện
còn một đài ghi dấu sự hợp tác giữa Liên bang Xô viết và Ai Cập.
Đập
Aswan hoàn thành sản xuất điện lực giúp phát triển kỹ nghệ vùng nam Ai Cập và
điều hòa lưu lượng sông Nile ở hạ nguồn.
Nước
sông Nile bị đập ngăn lại tạo thành một cái hồ nước ngọt nhân tạo lớn nhất thế
giới (hồ Nasser) trải dài 230 km từ Aswan đến Abu Simbel sát biên giới Soudan.
Hồ Nasser tràn ngập một số di tích và thế giới Tây phương đã giúp Ai Cập dời
đến chỗ cao hơn như đền thờ trên đảo Philae (tại Aswan) được dời qua đảo
Agikila và đền Abu Simbel. Đền Philae được xây cất thời Hy-La trong thế kỷ thứ
4 BC thờ hoàng hậu Isis (vợ vua Osiris – vua Osiris có đền thờ trên đảo Biggeh
gần đó).
Aswan
là cổng chiến lược phía nam của Ai Cập cổ đại. Các vua chúa Ai Cập đã chinh
phục và chiếm đất của người Nubia kéo biên giới đến tận Abu Simbel cách Aswan
230 km, sát biên giới Soudan.
Sáng
sớm ngày 3/12 chúng tôi đáp máy bay đi Abu Simbel. Đền Abu Simbel tôn vinh vua
Ramse II và hoàng hậu Nefertari nguyên được tạc trong núi đá khối và bị cát
chôn vùi không ai biết trong nhiều thế kỷ cho đến năm 1817 nhà mạo hiểm Belzoni
(Giovanni Battista – người Ý) nhân đi tìm châu báu khám phá ra.
Vào
thập niên 1960, 1970 nước hồ Nasser de dọa tràn ngập đền Abu Simbel và thế giới
đã giúp đỡ cắt đền ra từng mảnh ráp lại một điạ điểm mới (nơi chúng tôi đến
thăm). Đền Abu Simbel tiểu biểu bởi 4 bức tượng khổng lồ của vua Ramses II ở
lối vào hướng chếch Đông. Bên trong là môt hành lang nhỏ dài 60 mét chấm dứt
bằng 4 bức tượng nhỏ của thần Ptah, thần Amon-Re , vua Ramses II và thần mặt
trời Re-Horakhty. Hành lang được kiến tạo để ban ngày và quanh năm bên trong
tranh tối tranh sáng, ngoại trừ một năm hai lần vào hai ngày Hạ chí 21/6 và
Đông chí 21/12 khi mặt trời vừa mọc có một thời gian chừng vài phút mặt trời
chiếu thẳng vào hành lang rọi sáng 3 bức tượng Amon-Re, Ramses II và
Re-Horoakhty, nhưng vẫn để thần Plah trong bóng tối. Lối xây cất chứng tỏ người
Ai Cập hơn một ngàn năm trước đã có những hiểu biết chính xác về thiên văn và
sự đổi chỗ của mặt trời trên bầu trời trong năm.
Chiều
cùng ngày chúng tôi đáp máy bay trở về Cairo và sáng hôm sau đi viếng thành phố
Alexandria.
Alexandria
do Alexander Đại đế xây cất năm 332 BC. Alexandria trở thành trung tâm kinh tế,
quân sự và văn hóa của Ai Cập trong suốt 500 năm, và là trung tâm phát triển và
truyền bá Thiên chúa giáo tại Ai Cập trong thế kỷ thứ 3 AD. Hiện Alexandria có
lăng vua Ceasar và mộ Alexander Đại đế
và khu nghĩa địa của người Roman gọi là Catacomb ở Kom-el-Shukafa. Trong thời
kỳ hưng thịnh Alexandria có thư viện lớn nhất thế giới, có đèn pha Pharos cao
140 mét bằng đá cẩm thạch. Vật đổi sao dời. Ceasar đốt thư viện để dẹp tàn tích
của Muslim. Đèn pha sụp đổ bởi một trận động đất vào thế kỷ thứ 14.
Trở
về Cairo, đoàn du khách chúng tôi có dịp quan sát đời sống của người Ai Cập tại
khu chợ Khan al-Khalili. Cảnh sát du lịch (Tourist Police) hiện diện khắp nơi.
Sinh hoạt thương mãi nhộn nhịp. Chúng tôi thấy nhiều du khách gốc Á châu (Đại
Hàn, Trung quốc, Nhật Bản) hơn là người da trắng Tây Phương. Phái nam len lõi vào
các lối nhỏ “window shopping” và chụp hình trong khi các bà mua bán. Chúng tôi
có dịp vào “Naguib Mahfouz Coffee Shop”
trong một ngỏ hẽm của khu chợ, nơi nhà văn nổi danh Naguib Mahfouz người được giải văn chương Nobel năm 1988
thuở sinh thời từng đến uống cà phê gặp bạn
bè và văn hữu.
Là
một nước theo Hồi giáo nhưng người phụ nữ được tự do trang phục khi đi ra
ngoài. Đa số choàng khăn kể cả phụ nữ theo Thiên chúa giáo cho chúng tôi thấy
choàng khăn (ít nhất đối với Ai Cập) là một văn hóa chứ không nhất thiết là một
ràng buộc của tôn giáo. Điều kỳ lạ là chúng tôi thấy phụ nữ với khăn choàng
trông khả ái hơn phụ nữ đầu trần. Trên đường phố Ai Cập khăn choàng trở thành
một vật dụng trang sức của phụ nữ. Số phụ nữ mặc tuyền đen, bịt mặt chỉ chưa
đôi mắt rất ít và đó là sự chọn lựa của họ.
Các
cô sinh viên trẻ tuổi tụ tập nhau tại quảng trường lớn trước khu chợ trao đổi
chuyện trò và chụp hình với khách du lịch một cách thoải mái tự nhiên. Các cô
chia nhau kẹo bánh ríu rít cười đùa.
Ai
Cập là quốc gia Hồi giáo đang ở thế bản lề làm trung gian trong cuộc chiến
tranh chống khủng bố của Hoa Kỳ và thế giới Tây phương. Chính sách bản lề này
do tổng thống Anwar Sadat thực hiện sau khi ký thỏa ước hòa bình với Do Thái.
Vì thỏa ước hoà bình này năm 1981 tổng thống Sadat bị các thành phần Hồi giáo
qúa khích giết trong một cuộc diền binh tại Cairo. Thỏa ước hòa bình vẫn tồn
tại sau khi tổng thống Hosni Mubarak thay thế Sadat. Ông Mubarak năm nay 82
tuổi vẫn còn cầm quyền. Thế giới đang lo nếu ông không sắp xếp một sự chuyển
quyền ổn thỏa, sự ra đi của ông có thể tạo ra sự bất ổn định tại Trung đông.
Trên
đường ra phi trường trở về Hoa Kỳ chúng tôi dừng chân thăm mộ tổng thống Anwar
Sadat chôn tại một quảng trường ngay trước khán đài nơi ông bị hạ sát. Mộ chôn
là một Kim tự tháp nhỏ lóng lánh đèn ngủ sắc.
Qua
chuyến du hành Ai Cập cá nhân tôi (và nhiều bạn khác trong đoàn) thấy có cảm
tình với nhân dân Ai Cập mặc dù có bận tâm đối với cuộc chiến tranh chống khủng
bố do thái độ quá khích của một thành phần tín đồ Hồi giáo. Chúng tôi thấy có
thể hòa mình vào sinh hoạt của người bản xứ, cảm thấy gần gũi và không lo sợ.
Cơ
quan phụ trách du lịch của chính phủ Ai Cập có cho cảnh sát thường phục vũ
trang bảo vệ ngầm chúng tôi khi di chuyển bằng xe coach, hoặc khi đi thăm các
khu di tích. Trên đường từ phi trường Cairo đến khách sạn và ngược lại có xe vũ
trang hộ tống. Tôi nghĩ đó chỉ là sự bảo vệ hình thức để làm yên lòng du khách
nhất là du khách người da trắng hơn là một sự bảo vệ hữu hiệu. Sự đe dọa du
khách ở nước nào cũng có!
Trong
một cuộc tranh chấp hai bên cách ly nhau, sợ nhau, nghi ngờ lẫn nhau thì sự
căng thẳng dễ đưa đến chiến tranh. Xích lại gần nhau để thông cảm nhau và quý
mến nhau như những con người cùng “đầu
đen máu đỏ” mỗi bên có thể cảm nhận rằng nổi sợ lẫn nhau chỉ là tượng
tuợng.
Phải
chăng đó là phương án giải quyết các tranh chấp trên thế giới, và là một trong
những phương án giải quyết cuộc đối đầu vì tranh chấp văn hóa Tây phương và văn
hóa Muslim?
Suy
nghĩ đó ám ảnh tôi trong suốt chuyến bay dài 13 giờ cất cánh từ thủ đô Cairo
lúc 11 giờ đêm ngày Thứ Hai 6/12/2010
đưa đoàn du khách chúng tôi trở về Hoa Kỳ.
Đường
bay trên màn ảnh nhỏ, do sự ưu ái đối với hành khách theo đạo Hồi, có hình vị
trí máy bay với mũi tên chỉ về thánh địa Mecca ở Saudi Arabia để hành khách
theo đạo Hồi biết hướng nghiên mình cầu nguyện. Khi máy bay cất cánh mũi tên
chỉ hướng sau đuôi của máy bay. Chập chờn với giấc ngủ trên chiếc ghế lưng
nghiêng 200, khi thức dậy mũi tên đã hướng về hướng 10 giờ, cũng là
lúc phi trưởng thông báo hành khách cài dây lưng an toàn và sửa lại cho ngay
lưng ghế để đáp xuống phi trường New York.
Sau
thủ tục nhập cảnh chúng tôi chia tay nhau, người bay về San Francisco, Seattle
, kẻ đi Las Vegas và Los Angeles chấm dứt một chuyến du lịch phong phú về hiểu
biết và hữu ích về mặt tinh thần.
Thế
giới chúng ta sống không nguy hiểm như chúng ta tưởng, nếu ai cũng có một tấm
lòng.
Trần Bình Nam
Dec .
20, 2010