Đọc tài liệu lịch sử
Hải
Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 của Điệp Mỹ Linh
Trần
Bình Nam
Thông
thường, một tác phẩm vừa ra đời hoặc một nhà văn còn mới mẻ trong giới cầm bút
thì mới cần đến sự giới thiệu của một ngòi bút đàn anh hoặc đàn chị. Nhưng
trường hợp của Điệp Mỹ Linh thì khác. Điệp Mỹ Linh cầm bút từ năm 1961, theo
Writers Post, và đã trình làng chín tác phẩm gồm truyện ngắn, truyện dài và tài
liệu lịch sử.
Cuốn tài liệu lịch sử Hải Quân Việt
Nam Cộng Hòa Ra Khơi, 1975 đã được xuất bản từ năm 1990; và bây giờ Điệp Mỹ
Linh cho tái bản.
http://www.tranbinhnam.com/story/HaiQuan_RaKhoi_Original.html
Tôi nghĩ ít ai viết về một tác phẩm
tái bản. Nhưng, khi đọc bản gốc cuốn tài liệu Hải
Quân để góp ý với Điệp Mỹ Linh trước khi tái bản, tôi nhận thấy tôi nên viết ra
những nhận xét của tôi về tác phầm này.
Chuyên theo dõi thời cuộc và những
biến chuyển chính trị trên thế giới, tôi nhận thấy, một số quyết định quân sự
sai lầm của chính phủ miền Nam Việt Nam đã kéo theo không biết bao nhiêu cuộc
rút quân đẩm máu.
Những cuộc rút quân bằng đường bộ đã
được nhiều người viết lại. Nhưng những cuộc rút quân bằng đường thủy thì chỉ có
cuốn tài liệu Hải Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 của Điệp Mỹ Linh mới ghi lại đầy
đủ, trung thực và tỉ mỉ. Điệp Mỹ Linh đã chịu khó tra cứu, tìm tòi và phỏng vấn
hầu hết quý vị Hạm Trưởng và những nhân vật liên hệ.
Cuốn tài liệu được chia ra từng chương
rõ ràng, mạch lạc, ghi từng ngày, giờ khi sự kiện xảy ra. Mỗi chương và mỗi bài
đều có huy hiệu hoặc ảnh của chiến hạm đã tham dự.
Phần Sơ Lược Lịch Sử Hải Quân V.N.C.H.
và phần phỏng vấn những nhân vật liên hệ đến Chuyến Ra Khơi Cuối Cùng có những
liên quan mật thiết và bổ túc cho những chương viết về các cuộc rút quân bằng
đường thủy. Phần phụ lục cũng không kém quan trọng. Độc giả có thể biết số, tên
và loại của từng chiến hạm và chiến đỉnh.
Tiêu đề của cuốn sách là “Tài liệu
lịch sử”, nhưng khi đọc tôi không cảm thấy khô khan mà tôi như bị cuốn hút vào
những bi hùng có thật.
Xin mời quý độc giả đọc ba đoạn trích
dẫn sau đây: Đoạn một, về cuộc rút quân bằng đường thủy. Đoạn hai ghi lại những
đụng độ lớn tại vùng Sông Ngòi và sau cùng một bài phỏng vấn, để thẩm định giá
trị của cuốn tài liệu này.
Trần
Bình Nam
Oct . 3, 2011
**
CUỘC RÚT QUÂN TẠI ĐÀ-NẴNG
Vào tháng 3 năm
1975, những đại đơn vị cơ hữu của Quân-Lực V.N.C.H. tại Đà-Nẵng gồm:
§ Sư-Đoàn
§ Sư-Đoàn I Không-Quân – Sư-Đoàn-Trưởng là
Chuẩn Tướng Nguyễn Đức Khánh.
§ Lực-Lượng Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải – Tư
Lệnh là Phó-Đề-Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại.
§ Trung Tâm Huấn-Luyện Bộ-Binh Hòa-Cầm.
§ Nhiều đơn vị Địa-Phương-Quân và
Cảnh-Sát.
Sau khi
Quảng-Trị và Huế bị bỏ ngõ, Quảng-Tín và Quảng-Ngãi thất thủ, Đà-Nẵng đang bị
những gọng kềm sau đây siết chặt:
§ Sư-Đoàn 304 Việt-Cộng.
§ Sư-Đoàn 324 và Sư-Đoàn 325 cùng với vài
thành phần của Sư-Đoàn 34 Việt-Cộng từ Quảng-Trị và Huế kéo quân về Nam.
§ Sư-Đoàn 2 và Lữ-Đoàn 52 Việt-Cộng từ
Quảng-Tín và Quảng-Ngãi xua quân ra hướng Bắc.
Trong khi
Đà-Nẵng đang bị địch cô lập dần dần thì hai đại đơn vị Thủy-Quân Lục-Chiến và
Nhảy-Dù đang ở trên các chiến hạm, sẵn sàng rời Đà-Nẵng theo lệnh Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu.
Không hiểu sự
dằn co giữa Tướng Ngô Quang Trưởng và Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu diễn ra như
thế nào, nhưng Sư-Đoàn Nhảy-Dù và Thủy-Quân Lục-Chiến đã lên HQ 504, HQ 505 và
HQ 500 hai ngày rồi mà ba chiến hạm này vẫn chưa được lệnh tách bến.
Quá khuya 20
tháng 3, một Đại-Tá từ Quân-Đoàn I đích thân xuống chiến hạm, truyền lệnh của
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cho Hạm-Trưởng HQ 500, Hải-Quân Trung-Tá Lê Quang
Lập, rời bến. Tiếp theo, HQ 504 và HQ 505 cũng được lệnh rời bãi Quân-Vận
Đà-Nẵng.
Tin tình báo
cho hay, khoảng 35 ngàn quân Việt-Cộng đang có mặt chung quanh Đà-Nẵng. Mặc dù
có sự hiện diện của Lữ-Đoàn 258 Thủy-Quân Lục-Chiến tại phía Bắc đèo Hải-Vân,
nhưng sự triệt thoái Sư-Đoàn Nhảy-Dù và Thủy-Quân Lục-Chiến trong thời điểm đó
khiến mọi giới tại Đà-Nẵng xôn xao, lo ngại!
Riêng về
Hải-Quân, mối quan ngại lớn là: Nếu tình thế bắt buộc phải rút khỏi Đà-Nẵng,
làm thế nào Hải-Quân có thể đón tất cả quân bạn và gia đình binh sĩ mà vẫn bảo
toàn được Lực Lượng Hạm-Đội!
Ngoài một số ít
MSF biệt phái cho các vùng và một số chiến hạm đại kỳ tại Hải-Quân Công-Xưởng
Saigon, tất cả chiến hạm khác được lệnh trực chỉ Đà-Nẵng.
Vào thời điểm rút
quân tại Đà-Nẵng, thành phần chiến hạm tại Vùng I Duyên-Hải gồm:
§ Hải-Đội I Tuần-Duyên – Hầu hết MSF, PGM
và một số PCF.
§ Hải-Đội II Chuyển-Vận – HQ 802; HQ 801,
HQ 502, HQ 503, HQ 504, HQ 505, HQ 402, HQ 403, HQ 404 và một số LCU.
§ Hải-Đội
Ngoài ra còn có
Lực Lượng Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải với ghe Hải-Thuyền và PCF.
Tại vịnh
Đà-Nẵng, khi áp lực địch đè nặng lên mạn Bắc đèo Hải-Vân, các đơn vị trưởng của
Bộ-Chỉ-Huy Hạm-Đội được phân phối như sau:
§ Tư-Lệnh Hạm-Đội ở trên HQ 5.
§ Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội I Duyên-Phòng có
mặt tại Trung-Tâm Chiến-Báo (ICC – Intelligence Control Center) Vùng I Duyên
Hải, với nhiệm vụ phối hợp và điều động quân bạn và Hải-Quân.
§ Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội II Chuyển-Vận từ
HQ 801 chuyển qua HQ 802 tại sông Hàn.
§ Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội
Khi điều động
HQ 802 từ Cù Lao Ré về Đà-Nẵng, Bộ-Chỉ-Huy Hải-Quân có dụng ý muốn xử dụng
chiến hạm này làm Trung-Tâm Hành-Quân lưu động cho Quân-Đoàn I. Nhưng dự định
đó đã không thực hiện được vì HQ 802 không có bãi đáp cho trực thăng. Nếu phải
tháo gỡ những cần trục thì phương tiện không có, lại rất nguy hiểm vì dân chúng
và binh sĩ đầy tàu.
Vì lẽ đó, HQ
801 được chỉ định chuẩn bị làm căn cứ cho Bộ-Chỉ-Huy chiến thuật Quân-Đoàn I
rút xuống, trong trường hợp Đà-Nẵng bị tấn công.
Sau hai
cuộc rút quân từ Thuận-An và Chu-Lai, hầu hết Lực Lượng Hạm-Đội đều tập
trung trong vịnh Đà-Nẵng, nhưng án binh bất động.
Rút kinh nghiệm
ở Huế và Thuận-An, khi thấy tàu Hải-Quân neo đầy vịnh và nghe tiếng súng nhỏ nổ
lác đác trong thành phố Đà-Nẵng, mọi người ùa đến các cầu tàu và bãi cát.
Lúc này, hầu
hết Tướng lãnh của Quân-Đoàn I đều tập trung tại Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng I
Duyên-Hải. Hải-Quân đặt kế hoạch là, nếu phải rút quân, bãi Mỹ-Khê, phía Nam
vịnh Tiên-Sa, sẽ là bãi đón quân. Vì vậy, HQ 7 được lệnh tuần tiễu vùng này.
Trong khi tuần
tiễu, HQ 7 vớt được một số Thủy-Quân Lục-Chiến.
Ngày 25 tháng
3, Việt-Cộng pháo nhiều hỏa tiễn 122 ly vào thị xã Đà-Nẵng.
Dân chúng từ
Quảng-Trị và Huế kéo vào, choáng đường, gây trở ngại rất lớn cho công cuộc
phòng thủ Đà-Nẵng. Cướp bóc bắt đầu hoành hành. Tất cả mọi nẻo đường, nhất là
con đường độc nhất từ thị xã Đà-Nẵng sang Tiên-Sa, nghẹt cứng người, xe không
thể di chuyển được. Ví lý do này, những đại đơn vị của V.N.C.H. không thể bố
trí quân để chống trả với mấy Sư-Đoàn Việt-Cộng!
Trưa 25 tháng
3, tin tình báo cho biết Việt-Cộng sẽ tấn công Đà-Nẵng vào tối 25. Bộ
Tổng-Tham-Mưu chỉ thị Trung Tướng Tư-Lệnh Vùng I cho di chuyển tất cả phi cơ về
những phi trường phía Nam, thuộc sự kiểm soát của V.N.C.H. Cũng thời điểm này,
Tổng Lãnh-Sự Mỹ tại Đà-Nẵng, Albert A. Francis, ra lệnh tất cả phóng viên ngoại
quốc và nhân viên Hoa-Kỳ rời Đà-Nẵng ngay sáng 26 tháng 3.
Sau khi được
Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội
Chiều 27 tháng
3, Tổng-Lãnh-Sự Mỹ tại Đà-Nẵng, Albert A. Francis, ra lệnh những người Mỹ cuối
cùng phải rời Đà-Nẵng.
Chuyến bay cuối
cùng vừa cất cánh, phi trường Đà-Nẵng đóng cửa; vì dân, quân tràn ra phi đạo,
không một phi cơ nào có thể đáp hoặc cất cánh được nữa! Thời gian này, cũng tại
phi trường Đà-Nẵng, Tổng-Lãnh-Sự Albert A. Francis, bị dân quân Việt-Nam hành
hung; nhưng nhờ hai người Anh can thiệp kịp thời, đưa Ông về Bộ-Chỉ-Huy
Quân-Đoàn I, gặp Tướng Ngô Quang Trưởng. Vì phải sang Bộ-Chỉ-Huy Thủy-Quân
Lục-Chiến bên Non Nước hội, Tướng Trưởng đưa Tổng-Lãnh-Sự Francis và hai người
Anh theo, bảo họ chờ ở phòng ngoài.
Trên biển, hầu
hết PGM thuộc Hải-Đội I Tuần-Duyên được huy động để bảo vệ an ninh cho vịnh
Đà-Nẵng. Những PGM này tạo một vòng đai phía ngoài, cách bờ từ 15 đến 20 dặm,
để nghênh chiến trong trường hợp phi cơ hoặc tàu địch tấn công.
HQ 505 ủi bãi
Sơn-Chà với nhiệm vụ đón thành phần di chuyển của Sư-Đoàn Thủy-Quân Lục-Chiến.
HQ 404, “nằm yên” tại bãi Trịnh Minh Thế chờ lệnh. Những chiến hạm thuộc
Hải-Đội
Ngày 28 tháng
3, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng liên lạc vô tuyến với Tổng Thống Nguyễn Văn
Thiệu, xin chỉ thị rút khỏi Đà-Nẵng để bảo vệ Lực Lượng Quân-Đoàn I. Trong khi
Tổng Thống Thiệu chưa có một quyết định dứt khoát thì hệ thống truyền tin trúng
đạn pháo kích. Cuộc điện đàm giữa Trung Tướng Tư-Lệnh Vùng I, Ngô Quang Trưởng,
và Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bị đứt đoạn.
Tướng Ngô Quang
Trưởng gọi Phó-Đề-Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại sang Bộ-Chỉ-Huy Thủy-Quân Lục-Chiến bên
Non Nước họp để bàn kế hoạch di tản. Phiên họp gồm:
§ Tướng Ngô Quang Trưởng – Tư Lệnh Vùng I
chiến thuật.
§ Tướng Nguyễn Duy Hinh – Tư Lệnh Sư-Đoàn
§ Tướng Bùi Thế Lân – Tư-Lệnh Thủy-Quân
Lục-Chiến
§ Phó-Đề-Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại – Tư-Lệnh
Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải
Tướng Trưởng
chỉ thị Phó-Đề-Đốc Thoại: Nếu phải rút khỏi Đà-Nẵng, Hải-Quân phải tận dụng mọi
phương cách để chuyên chở binh sĩ và gia đình của họ. Tướng Trưởng cũng chỉ thị
Tướng Hinh đưa Sư-Đoàn
Sau khi phiên
họp kết thúc, vừa ra khỏi phòng họp, Phó-Đề-Đốc Thoại thấy Tổng-Lãnh-Sự Albert
A. Francis và hai người Anh đang chờ phía ngoài. Cả ba người ngoại quốc này đều
xin Phó-Đề-Đốc Thoại phương tiện rời khỏi Đà-Nẵng.
Trên trực thăng
riêng của Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải, ngoài Phó-Đề-Đốc Thoại còn có
Tướng Trưởng, Tổng-Lãnh-Sự Francis và hai người Anh.
Tại Tiên-Sa,
Tướng Trưởng, Tướng Lân, Tướng Thi, Tướng Hinh, Phó-Đề-Đốc Thoại và Đại-Tá
Nguyễn Thế L. Thủy-Quân Lục-Chiến (Đại-Tá L. bị thương, phải nằm trên bàn), họp
ngay hầm chống pháo kích trong lòng núi Tiên-Sa. Hầm này do Công-Binh đào từ
năm 1972, bên dưới tư dinh của Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải. Tổng-Lãnh-Sự
Francis và hai người Anh ở một hầm khác.
Nội dung cuộc
họp cũng chỉ bàn về kế hoạch rút quân bằng cách nào mà sự tổn thất có thể giảm
đến mức tối thiểu. Trung Tướng Trưởng chỉ thị Tướng Lâm-Quang-Thi lên HQ 5 ra
phía Bắc Hải-Vân điều động cuộc triệt thoái Thủy-Quân Lục-Chiến. Từ đây, HQ 5
được xem như Soái-Hạm.
Họp xong,
Phó-Đề-Đốc Thoại chỉ thị Hải-Quân Đại-Tá Phạm Mạnh Khuê xử dụng Soái-Đỉnh của
Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải đưa Tổng-Lãnh-Sự Francis và hai người Anh ra
Soái-Hạm HQ 5, lập Bộ-Chỉ-Huy nổi. Thi hành công tác xong, Đại-Tá Khuê phải gửi
Soái-Đỉnh vào ngay, để sau khi lo xong những việc khẩn cấp, Phó-Đề-Đốc Thoại sẽ
dùng để ra HQ 5.
Trung tâm hành
quân Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải gọi HQ 5 và thông báo cho HQ 5 biết Soái-Đỉnh
của Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải đang trên đường tìm đến HQ 5.
Trong khi đó,
mặc dù người đông nghẹt trên bãi, tất cả chiến hạm vẫn chưa được lệnh ủi bãi.
Trưa 28 tháng
3, tất cả chiến hạm và tàu nhỏ nhận lệnh tiếp nhận quân bạn và đồng bào.
Khi HQ 402 và
HQ 403 đang ủi bãi, thi hành nhiệm vụ chuyển tiếp quân và đồng bào từ bãi
Tiên-Sa ra tàu lớn thì nhiều thiết vận xa tiến đến, giây xích sắt nghiến bừa
lên vô số người, không cho Thủy-Quân Lục-Chiến và Bộ-Binh lên tàu!
Sau khi nghe
Hải-Quân bắt loa kêu gọi và hứa sẽ đón hết, xe thiết giáp mới dừng lại, tạo
thành một dọc dài trên bờ biển!
HQ 403 vừa ủi
bãi, cửa đổ bộ chưa kịp hạ xuống, không biết bao nhiêu người từ bờ đã ùa ra,
vây quanh thân tàu, leo vào lòng tàu. Hạm trưởng cho thả thang giây và giây
thừng loại lớn hai bên tả và hữu hạm cũng như sau lái để đồng bào bám vào, leo
lên tàu.
Cửa đổ bộ từ từ
hạ xuống. Hải-Quân Trung-Úy Nguyễn Hữu Từ và một Trung-Úy nữa, cũng tên Từ,
được phái xuống cửa đổ bộ để kéo hoặc giúp đỡ quân bạn lên tàu. Không ngờ, tại
cửa đổ bộ, cả hai Trung-Úy đều bị người ta kéo ngược xuống nước, không thể nào
lên tàu lại được! Trên bờ, thiết giáp và GMC lại cán bừa lên mọi người để tiến
đến chiến hạm!
Hạm trưởng HQ
403 bắt loa kêu gọi đồng bào đừng bơi gần tàu và nhất là đừng đến gần sau lái,
nguy hiểm. Hạm trưởng hứa sẽ trở vào đón thêm nhiều chuyến nữa. Nhưng, người
người vẫn cứ từ bờ ào ra, chờn vờn quanh thân tàu, súng đạn vất đầy bãi cát.
Không xa HQ 403
lắm là HQ 402. Tình trạng chiến hạm này cũng không khá gì so với HQ 403. Nhìn
một tàu đầy nghẹt người, nghe nhiều tiếng súng lớn phát ra và nhiều cột nước
bắn lên từ phía HQ 402, Hạm-Trưởng HQ 403 lo ngại, muốn cho chiến hạm lui ra.
Nhưng thấy đầu người lúc nhúc quanh tàu, Hạm-Trưởng không nỡ.
HQ 402 đang từ
từ lui ra và nhiều tiếng súng bắn theo!
Thấy HQ 402 lui
ra, và sau nhiều phút do dự, Hạm-Trưởng HQ 403 ra lệnh: “Tay lái hết bên
phải. Tả lùi. Hữu tiến.” Chân vịt khuấy lên. Nước cuồn cuộn đỏ nhưng con
tàu vẫn không nhúc nhích!
Hạm-Trưởng HQ
403 gọi Tư-Lệnh Hạm-Đội, xin cho tàu lớn vào kéo.
Đợi khoảng nửa
giờ không thấy ai vào kéo mà chỉ thấy thêm người trèo vào tàu, Hạm-Trưởng ra
lệnh nhiệm sở tác chiến và tất cả quân nhân đơn vị bạn phải xuống lòng tàu.
Một lúc lâu,
nhờ sự bình tĩnh của chính mình và cũng nhờ vào khả năng của sĩ quan cơ khí
giàu kinh nghiệm, HQ 403 đã lùi được và quay thật nhanh. Vòng quay này thân tàu
đã lướt trên nhiều thân người. Khi chiến hạm lui ra, một số người bị sức hút
của nước kéo theo, đập vào thành tàu, chết!
Sau khi chuyển
người sang tàu lớn, HQ 403, lại được lệnh trở vào bãi biển Tiên-Sa đón thêm quân bạn và đồng bào. Vì ngại
chiến hạm bị mắc cạn và sợ phải thấy những sự việc thương tâm như chuyến vừa rồi,
Hạm-Trưởng HQ 403 đề nghị cấp chỉ huy xét lại lệnh này.
Chiều 28 tháng
3, tất cả hệ thống truyền tin của mọi binh chủng thuộc Quân-Lực V.N.C.H. bị
Việt-Cộng xâm nhập, khuấy phá, khiến sự liên lạc trở nên vô cùng khó khăn.
Bộ-Tư-Lệnh
Hải-Quân Saigon liên tục gọi 27 chiến hạm trong vịnh Đà-Nẵng, bảo tìm phương vị
của Phó-Đề-Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại.
Soái-đỉnh chở
Tổng-Lãnh-Sự Francis cặp một Coast Guard và Coast Guard đưa Tổng-Lãnh-Sự
Francis lên HQ 5. Lúc này, không thấy Phó-Đề-Đốc Thoại trên Coast Guard cùng
với Tổng-Lãnh-Sự Francis, mọi người trên HQ 5 hoảng lên; vì nghĩ rằng
Phó-Đề-Đốc Thoại có thể đã mất tích hoặc chết rồi!
Khi
Tổng-Lãnh-Sự Francis vừa lên tàu, luồn phẫn nộ bộc phát dữ dội trong số quân,
dân di tản; vì họ hận Mỹ bỏ rơi miền Nam Việt-Nam! Hạm-Trưởng HQ 5 đưa
Tổng-Lãnh-Sự Francis lên phòng riêng và cho nhân viên bảo vệ Ông.
Trong khi
Tổng-Lãnh-Sự Francis được an toàn trên HQ 5 thì tại Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng I
Duyên-Hải, Phó-Đề-Đốc Thoại ra lệnh Tư-Lệnh-Phó, Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Công
Hội, kiểm soát tất cả các phòng rồi đưa Bộ-Tham-Mưu đi ra bãi Bắc. Phó-Đề-Đốc
Thoại ở lại.
Hải-Quân
Trung-Úy Đoàn Như Ngọc, tùy viên của Phó-Đề-Đốc Thoại, tỏ ý muốn xin theo
Đại-Tá Hội. Nhưng, khi Phó-Đề-Đốc Thoại thuận thì Trung-Úy Ngọc lại đổi ý, xin
ở lại. Biết Trung-Úy Ngọc mới cưới vợ, Phó-Đề-Đốc Thoại bảo Trung-Úy Ngọc hãy
đi trước khi quá trễ. Quyết định này của Phó-Đề-Đốc Thoại đã gây trở ngại rất
nhiều cho chính Ông, khiến Ông bị kẹt lại trên đảo; vì Trung-Úy Ngọc mang theo
tất cả mật mã truyền tin!
Soái đỉnh của
Tư-Lệnh Vùng I Duyên-Hải trở lại Tiên-Sa với mục đích đón Ông. Nhưng đủ loại
súng từ bờ bắn ra chiến hạm và chiến đỉnh cho nên không tàu nào dám vào!
Nhờ biết được
tần số liên lạc, Việt-Cộng gọi đích danh danh hiệu nhiều đơn vị trưởng để chiêu
dụ. Đặc công Việt-Cộng giả kẻ tu hành, gây náo loạn trên vài chiến hạm. Trên
bờ, Việt-Cộng mặc quân phục Thủy-Quân Lục-Chiến, lấy súng giết người, cướp của,
hãm hiếp, cố tạo tiếng xấu cho binh chủng này, đồng thời gây kinh hoàng cho
đồng bào.
Khoảng 8 giờ
tối 28 tháng 3, Tướng Ngô Quang Trưởng gọi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, nhưng
không gặp. Mười giờ, Tổng Thống Thiệu gọi lại. Tướng Trưởng xin Tổng Thống
Thiệu cho di tản bằng đường biển.
Cuộc điện đàm
vừa đến ngang đây, hỏa tiễn 122 ly của Việt-Cộng từ hướng Nam-Ô nã thẳng vào
Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải, làm hư hại nặng trực thăng của Tướng Ngô
Quang Trưởng và trực thăng của Tướng Bùi Thế Lân, Tư-Lệnh Thủy-Quân Lục-Chiến.
Tướng Trưởng xử dụng một trực thăng khác, bảo
bay về Quân-Đoàn. Đến nơi, không thấy ai cả, Tướng Trưởng ra lệnh bay sang
Bộ-Tư-Lệnh Thủy-Quân Lục-Chiến tại Non Nước. Tướng Trưởng ở lại đây với
Thủy-Quân Lục-Chiến. Lúc này Bộ-Tham-Mưu và lực lượng Sư-Đoàn Thủy-Quân
Lục-Chiến còn nguyên vẹn, dưới sự chỉ huy của Tư-Lệnh-Phó Thủy-Quân Lục-Chiến,
Đại-Tá Nguyễn Thành Trí.
12 giờ đêm 28
tháng 3, Trung Tướng Lâm Quang Thi và Hải-Quân Đại Tá Nguyễn Xuân Sơn dùng trực
thăng của Tướng Thi bay ra và đáp trên một LST. Sau đó phi công mới biết là hai
cánh quạt trên trực thăng của Tướng Thi bị bắn lủng hai chỗ. Từ LST, Tướng Thi
và Đại-Tá Sơn được một PCF đưa đến Soái-Hạm Trần-Bình-Trọng HQ 5.
Phó-Đề-Đốc
Thoại, Tướng Lân và Đại-Tá Nguyễn Thế L. kẹt lại. Sau khi thiêu hủy tất cả hồ
sơ mật, Phó-Đề-Đốc Thoại, Tướng Lân cùng nhiều sĩ quan các cấp đưa Đại-Tá L. và
cận vệ của Phó-Đề-Đốc Thoại – người này bị thương vì Việt-Cộng pháo kích – đi
bộ ngược lên núi Sơn-Chà, đến một bãi cát nhỏ phía Bắc Sơn-Chà. Tại đây,
Phó-Đề-Đốc Thoại liên lạc truyền tin kêu cứu, không một đơn vị nào đáp lại!
4 giờ sáng 28
tháng 3, Hải-Quân Thiếu-Tá Nguyễn Văn Hy, Thiếu-Tá Căn và Đại-Úy Sinh tìm cách
đưa đoàn ghe của Duyên-Đoàn 12, chở đầy người, ra biển, tập trung tại vùng
China Beach. Khi đoàn ghe vừa ra khỏi cửa Đà-Nẵng, hướng về điểm hẹn thì
Việt-Cộng lại pháo kích vào Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải. Một Trung-Úy
Việt-Cộng bị bắt tại chỗ trong khi anh ta đang liên lạc vô tuyến, cho tọa độ.
Thiếu-Tá Hy mở
máy liên lạc, các tần số Hải-Quân đều yên lặng. Khi mở sang tần số đặc biệt,
Thiếu-Tá Hy nghe tiếng Phó-Đề-Đốc Thoại kêu cứu! Thiếu-Tá Hy trả lời. Tư-Lệnh
Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải cho Thiếu-Tá Hy biết địa điểm của Ông rồi chớp đèn,
hướng dẫn để Thiếu-Tá Hy cho ghe vào sát các mỏm đá.
Thiếu-Tá Hy lần
lượt kéo Phó-Đề-Đốc Thoại, Tướng Lân, mấy bác sĩ Quân-Y và hai sĩ quan hoa tiêu
trực thăng lên ghe. Vì ghe nhỏ, không chở được nhiều, Thiếu-Tá Hy cho ghe lui
ra, đưa quý vị trên ghe lên một Coast Guard rồi trở vào nhiều lần nữa để đón
những sĩ quan cao cấp Hải-Quân khác.
Lần trở vào thứ
tư Thiếu-Tá Hy cứu được Hải-Quân Thiếu-Tá Trần-Bích-Thùy, Hải-Quân Thiếu-Tá Vũ
Bá Trạch và một Trung Úy Hải-Quân.
Cũng thời điểm
này, HQ 403 được lệnh vào vịnh nhỏ bên trái cửa biển – gần Observatory Light
Point – để đón một Đại-Tá cùng binh sĩ và gia đình. Vịnh rất hẹp, sóng lớn. Tuy
chiến hạm bị sóng nhồi, suýt đập vào vách đá nhiều lần, nhưng HQ 403 vẫn cố vào
sát những mỏm đá, chiếu đèn pha và bắt loa gọi. Không ai trả lời.
Sáng sớm 29
tháng 3, sau khi báo cáo lên Tư-Lệnh Hạm-Đội về việc không tìm được vị Đại-Tá
và binh sĩ vào tối hôm trước, HQ 403 được lệnh lẩn quẩn trong sông Hàn, đón ghe
chở quân nhân và đồng bào ra. Công tác này không thể thực hiện được, vì sóng
lớn quá. Nếu ghe cập gần chiến hạm thì bị sóng đánh ập vô thành tàu rồi văng ra
xa. Nhân viên HQ 403 tìm mọi phương cách nhưng vẫn không cứu vớt được ai – kể
cả vợ của Hải-Quân Trung-Úy T., một sĩ quan của HQ 403!
HQ 403 lại được
lệnh ủi bãi trong vịnh Liên-Chiêu để đón những đơn vị Biệt-Động-Quân. HQ 403
chờ mãi vẫn không thấy đơn vị bạn xuất hiện.
Trong vịnh
Đà-Nẵng và bãi Tiên-Sa, chiến hạm Hải-Quân vẫn thực hiện công tác đón nhận binh
sĩ và đồng bào một cách rất khó khăn và nguy hiểm. Trong lòng các chiến hạm,
máy truyền tin của Bộ-Binh vất đầy. Nhiều nhân viên của chiến hạm bắt được tần
số của Việt-Cộng, hai bên đấu khẩu.
Tại mũi
Tiên-Sa, HQ 802 vào gần sát bờ để đón Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội I Duyên-Phòng.
Xong, HQ 802 đến gần mũi Isabel (bờ Bắc vịnh Đà-Nẵng), len vào thật sát các mỏm
đá để đón Lữ-Đoàn 258 và Bộ-Chỉ-Huy Thủy-Quân Lục-Chiến. Cuộc đón quân này
tương đối ít tổn thất vì tinh thần kỷ luật của Thủy-Quân Lục-Chiến rất
cao.
Vì hệ thống
truyền tin bị khuấy phá, Hạm-Trưởng HQ 802, Hải-Quân Trung-Tá Vũ Quốc Công,
buộc phải nhập vào hệ thống truyền tin của Bộ-Chỉ-Huy Hạm-Đội Tiền-Phương.
Trung-Tá Công được lệnh đưa Thủy-Quân Lục-Chiến về vùng tập trung chiến hạm tại
Cù Lao Chàm.
Trong khi đó,
một trực thăng lượn qua lượn lại quanh HQ 404. Ngại bị trực thăng bắn,
Hạm-Trưởng ra lệnh kéo cờ nhiệm sở tác chiến. Sau vài vòng bay lượn, thấy chiến
hạm báo động, nhóm người trên trực thăng ra dấu chào hỏi và liệng xuống một
chiếc giày trận rồi bay vào bờ. Rời trực thăng, nhóm người ấy bơi ra HQ 404.
Sau khi vớt
nhóm người từ bờ bơi ra, mọi người trên chiến hạm mới biết nhóm người đó là:
§ Chuẩn Tướng Nguyễn Đức Khánh –
Sư-Đoàn-Trưởng Sư-Đoàn I Không-Quân.
§ Đại-Tá Phước – Không-Đoàn-Trưởng
Không-Đoàn 63.
§ Đại-Tá Vượng – Không-Đoàn-Trưởng
Không-Đoàn Khu-Trục.
§ Nhiều sĩ quan khác.
Chiều 29 tháng
3, HQ 404, được lệnh rời bãi Trịnh-Minh-Thế, đến cập cầu Căn-Cứ Yểm-Trợ tiếp vận
Đà-Nẵng bên Tiên-Sa. Một số quân nhân và đồng bào đã leo được vào chiến hạm.
Sau đó, HQ 404 lại được lệnh lui ra, neo tại sông Hàn, chờ lệnh.
Khuya 29 tháng
3, khoảng 12 giờ 30, Hạm-Trưởng HQ 404, Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Đại Nhơn, nhận
được mật lệnh từ Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân: “Chỉ thị HQ 404 đúng 04 giờ 30 sáng 30
tháng 03 năm 1975, vào cách bờ 05 hải lý để đón Trung Tướng Ngô Quang Trưởng,
Tư-Lệnh Quân-Đoàn I!”
30 tháng 3,
đúng 4 giờ sáng, Trung-Tá Nhơn báo cáo đã đến điểm hẹn. Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân chỉ
thị HQ 404 thả trôi lềnh bềnh, chờ lệnh trực tiếp từ Tổng-Tham-Mưu.
Đến 8 giờ sáng,
không thấy lệnh mới, Trung-Tá Nhơn liên lạc Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân xin chỉ thị.
Được trả lời: “Cứ lềnh bềnh ở đó, chờ lệnh.”
10 giờ sáng,
Hạm-Trưởng HQ 404 sốt ruột, dùng máy truyền tin PRC25 liên lạc bằng bạch
văn với Tư-Lệnh Hạm-Đội. Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Xuân Sơn trả lời: “Tôi không
có thẩm quyền gì về chiến hạm của anh cả. Anh hãy chờ lệnh từ Tổng-Tham-Mưu.
Tuy nhiên, cho anh hay là Trung Tướng Trưởng đang ở trên bờ, ngay trước mặt anh
đó.”
Mặc dù không có lệnh
nào cho phép ngưng thả trôi lềnh bềnh, Hạm-Trưởng HQ 404 cũng vẫn cho chiến hạm
vào gần bờ, với mục đích tìm vớt Tướng Ngô Quang Trưởng.
Khoảng 2 giờ trưa cùng ngày, từ Bộ-Chỉ-Huy Thủy-Quân Lục-Chiến ở căn cứ Non Nước, nhân viên
canh phòng thấy HQ 404 vào, liền trình lên thượng cấp.
Biết chiến hạm
vào đón, Thủy-Quân Lục-Chiến tận dụng phao, poncho và tất cả vật nổi để
làm bè. Trung Tướng Ngô Quang Trưởng cùng bơi ra chiến hạm HQ 404 với những
người lính đã từng sống chết với Ông qua nhiều chặng đường binh nghiệp hay go!
Trên HQ 404,
cũng như tại căn cứ Thủy-Quân Lục-Chiến ở Non Nước, Bộ-Tham-Mưu Thủy-Quân
Lục-Chiến thảo công điện theo chỉ thị của Tướng Trưởng để gửi về Saigon.
5 giờ chiều, Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân chỉ thị HQ 5 đón Tướng Trưởng từ HQ 404
sang Soái-Hạm, vì HQ 5 đầy đủ tiện nghi.
Tuy cuộc rút
quân thê thảm trong vịnh Đà-Nẵng chưa chấm dứt, nhưng HQ 404 và HQ 5 vẫn chuẩn
bị nghi lễ đúng truyền thống Hải-Quân để đưa và đón Tư-Lệnh Quân-Đoàn I – Trung
Tướng Ngô Quang Trưởng.
Hạm Phó HQ 5,
Hải-Quân Thiếu-Tá Hồ Văn Kỳ Tường, mang sang HQ 404 mật điện của Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu. Thiếu-Tá Tường được Hạm-Phó HQ 404 hướng dẫn gặp Tướng
Trưởng. Trong bộ quân phục Hải-Quân màu xám tím, không mang cấp bậc, áo bỏ
ngoài, Tướng Trưởng rời giường ngủ của đoàn viên, cầm mật điện, xé ra đọc. Đọc
xong, Tướng Trưởng ra lệnh cho Thiếu-Tá Tường: “Báo cáo với Saigon là tôi
xin được ở đây với anh em Thủy-Quân Lục-Chiến chứ không đi đâu cả.”
Yêu cầu của
Trung Tướng Ngô Quang Trưởng được Tổng Thống Thiệu chấp thuận.
Những chiến hạm
chở đầy người được lệnh rời vùng, di chuyển chậm để có thể đón thêm người từ
ghe ra biển. Những thương thuyền của Mỹ, tàu nhỏ và xà-lan cũng rời Đà-Nẵng.
HQ 17, sau khi
nhận thêm một số Thủy-Quân Lục-Chiến và đồng bào, được chỉ thị yểm trợ HQ 404,
đưa Tướng Ngô Quang Trưởng và Sư-Đoàn Thủy-Quân Lục-Chiến về Vùng II.
Trên hải trình
xuôi Nam, khi qua mũi Sơn-Chà, HQ 802 tình cờ bắt được liên lạc truyền tin với
một thành phần của Bộ-Chỉ-Huy hành quân Quân-Đoàn I trên tần số giải tỏa. Nhóm
này yêu cầu Hải-Quân cứu giới chức thẩm quyền.
Ngại Việt-Cộng
xâm nhập, khai thác hệ thống truyền tin, Hạm-Trưởng HQ 802 trình lên Bộ-Chỉ-Huy
Hạm-Đội tiền phương. Giới chức này không giải quyết được và cho phép Hạm Trưởng
HQ 802 tùy nghi.
Lời kêu cứu của
nhóm Quân-Đoàn I lại vang lên. Bây giờ lại thêm tiếng kêu cứu của nhóm khác: “Hải-Quân
ơi! Cứu Không-Quân với!” Nhóm thứ hai cho biết họ đang kẹt tại phía Nam bán
đảo Sơn-Chà. Họ phóng hỏa châu để HQ 802 dễ nhận ra vị trí của họ.
HQ 802 đổi
hướng, quay lại đón nhóm Không-Quân. Khi tiến vào bán đảo Sơn-Chà, Hạm-Trưởng
cho phóng đèn pha lên trời để nhóm Không-Quân nhận biết sự hiện diện của HQ
802. Vừa khi đó, trên sườn đồi sát mặt biển, đèn trực thăng bỗng lóe lên và
tiếng kêu cứu của Bộ-Chỉ-Huy hành quân Quân-Đoàn I cũng vang lên.
Hải-Quân
Trung-Tá Vũ Quốc Thông, Hạm-Trưởng HQ 802, ra lệnh nhiệm sở tác chiến, đồng
thời cho hạ xuồng đổ bộ vào cứu cả hai nhóm. Nhóm Bộ-Chỉ-Huy hành quân
Quân-Đoàn I có Tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư-Lệnh Sư-Đoàn
Công tác cứu
người hoàn tất, HQ 802 trực chỉ về Nam. Trên hải trình, HQ 802 gặp lại đoàn tàu
của Hải-Đội I Duyên-Phòng và một trong những tiểu đỉnh đó chở Phó-Đề-Đốc Hồ Văn
Kỳ Thoại. HQ 802 đón Phó-Đề-Đốc Thoại và đoàn tùy tùng của Ông sang.
Tối 30 tháng 3, sau
khi rời Đà-Nẵng, HQ 403 nhận quang hiệu từ phía sau, cho biết, họ là tàu dòng Seapac,
đang kéo hai xà-lan với khoảng mười ngàn người, cầu cứu nước uống. Hạm
Trưởng HQ 403 do dự suốt mấy tiếng đồng hồ. Sau cùng, biết chắc chắn không thể
nào đủ nước uống cho từng ấy người, và lo ngại cho sự an toàn của HQ 403 khi
chiến hạm cặp vào xà-lan, Hạm-Trưởng HQ 403 đành quyết định đi luôn.
Trên một trong hai
xà-lan đó có Hải-Quân Thiếu-Tá Võ Văn Q., bạn cùng khóa với Hạm-Trưởng HQ 403.
Sau này Thiếu-Tá Q. cho biết: Đồng bào và quân nhân trên hai xà-lan ấy nhờ liếm
sương trên xà-lan vào mỗi sáng sớm cho nên khỏi chết khát!
Còn hai xà-lan
khác đứt giây dòng trong đêm, trôi dạt phương nào, chiếc tàu dòng kiếm không
ra. Về sau trực thăng Mỹ tìm thấy, nhưng mọi người trên hai xà-lan ấy đã chết
khô!
Ngày 31 tháng
3, lệnh trưởng phòng 3 hành quân di chuyển, từ Soái-Hạm HQ 5, chỉ thị Hải-Quân
Trung-Tá Lê Thuần Phong, Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội II Chuyển-Vận, sang HQ 230,
ngược trở lại để yểm trợ Duyên-Đoàn 14 vừa từ Hội-An ra. Công tác này được thực
hiện tốt đẹp.
Khi đoàn tàu
đến gần Qui-Nhơn, vừa qua khỏi Cù Lao Chàm, Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội
HQ 17, HQ 8 và
HQ 12, được lệnh sớt người qua những chiến hạm khác rồi quay lại Đà-Nẵng. Hai
trong ba chiến hạm đó được chỉ thị quan sát và yểm trợ để chiếc thứ ba vào đón
chiếc phà.
Ngoài ba chiến
hạm vừa trở lại, vịnh Đà-Nẵng vắng tênh!
**
NHỮNG
TRẬN CHIẾN TRÊN VÀM-CỎ-TÂY
Ngay khi mặt trận Long-An vừa bùng nổ,
Lực-Lượng 99, dưới sự chỉ huy của Hải-Quân Đại-Tá Lê Hữu Dõng, được đưa vào
chiến trận.
Đại-Tá Dõng là vị sĩ quan đầu tiên của
khóa 8 Hải-Quân Nha-Trang được thăng Đại-Tá. Về hải vụ, có thể nói Đại-Tá Dõng
không thua bất cứ một vị đàn anh nào cả. Về chỉ huy những đơn vị chiến đấu
trong sông rạch, Đại-Tá Dõng và người bạn cùng khóa, Hải-Quân Trung-Tá Hồ Quang
Minh, là hai sĩ quan được các đại đơn vị Việt-Cộng tại Vùng
Ngày 17 tháng 4, Lực-Lượng 99 khởi
hành từ Nhà Bè, trực chỉ Long-An.
Thời gian này, với mục đích cắt quốc
lộ IV, ngăn chận sự tiếp viện của quân V.N.C.H. từ Vùng IV Chiến-Thuật,
Công-Trường 7 Việt-Cộng kéo quân từ Cái-Bè đến Bến-Tranh thì “đụng” nặng với
một Trung-Đoàn của Sư-Đoàn 7 Bộ-Binh. Khi địch đến rạch Cần-Đốt lại gặp phải sự
kháng cự mãnh liệt của Địa-Phương-Quân.
Cánh quân Công Trường 8 Việt-Cộng đánh
vào Rạch-Kiến chạm phải sức kháng cự vũ bão của Lực-Lượng Địa-Phương-Quân,
khựng lại đó.
Cánh quân Việt-Cộng tấn công quận
Tân-Trụ đang tràn ngập trong Chi-Khu vừa lúc Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 99 đang giang
hành ngang Tân-Trụ để tiến về Long-An. Lúc này Giang-Đoàn 40 Ngăn-Chận cũng vừa
đưa một Tiểu-Đoàn Địa-Phương-Quân từ Long-An lên tiếp viện quận Tân-Trụ.
Sau khi “đổ” quân, Giang-Đoàn 40
Ngăn-Chận cùng Lực-Lượng 99 nhập trận, yểm trợ Địa-Phương-Quân.
Bất ngờ đụng nặng với hai đơn vị tác
chiến Hải-Quân, quân của Công-Trường 8 Việt-Cộng, sau nhiều đợt chống trả dữ
dội, đành “chém vè”! Quận Tân-Trụ được giải tỏa cùng ngày.
Ngày 18 tháng 4, khoảng 8 giờ sáng,
Lực-Lượng 99 đến Long-An. Tình hình kinh Thủ-Thừa nguy ngập. Trên giang trình
tiến đến giải tỏa kinh Thủ-Thừa, khi vừa qua khỏi cầu Long-An khoảng hai trăm
thước, Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 99 thấy rất đông người đang tắm, nô đùa dưới sông,
bên bờ đối diện rạch Cần-Đốt. Đặt ống dòm quan sát, Hải-Quân Đại-Tá Lê Hữu
Dõng, Chỉ-Huy-Trưởng Lực-Lượng 99, phát giác ra đó là một đại đơn vị Việt-Cộng.
Lập tức, Đại-Tá Dõng ra lệnh toàn Lực-Lượng ủi thẳng sang, tấn công.
Khi thấy đoàn chiến đỉnh ủi ngay vào
điểm dừng quân của mình, một đơn vị của Công Trường 7 Việt-Cộng, chấp nhận đánh
nhau, không chạy. Hai bên cách nhau khoảng mười thước, có thể thấy nhau bằng
mắt thường, cho nên, mọi người trên đoàn giang đỉnh đều thấy Việt-Cộng nhốn
nháo, tán loạn. Tuy vậy, sức phản công của địch từ bờ bắn ra cũng dữ dội với đủ
loại súng, có cả 82 ly không giật và 12 ly 8. Phía Lực-Lượng 99, mọi vũ khí
nặng trên chiến đỉnh đều được xử dụng tối đa.
Trong khi trận chiến đang diễn ra dữ
dội, Thủy Thủ Đức bị thương trên mặt và đầu, máu tuôn xối xả. Thủy Thủ Đức chỉ
đưa tay vuốt máu trên mặt rồi đứng thẳng trên chiếc Tango, ôm MK19, nã thẳng vào
địch quân.
Đến 5 giờ chiều, sức kháng cự của
Việt-Cộng yếu dần. Bộ-Binh và Địa-Phương-Quân được điều động đến, đổ bộ. Lúc
này chỉ còn nghe rời rạc vài tiếng B40.
Trong trận này, tổn thất về phía
Hải-Quân và quân bạn không đáng kể. Việt-Cộng thiệt hại không dưới một
Tiểu-Đoàn. Vũ khí tịch thu gồm: 4 khẩu 82 ly không giật, 2 khẩu 12 ly 8, 12
khẩu B40, rất nhiều AK và súng trường Nga.
Sáng 19 tháng 4, Lực-Lượng 99 và
Giang-Đoàn 42 Ngăn-Chận trở lại địa điểm đã đụng độ với Việt-Cộng ngày hôm
trước. Đoàn giang đỉnh vừa đến nơi, hai giang đỉnh bị bắn. Một Monitor của
Giang-Đoàn 42 Ngăn-Chận bị 82 ly không giật bắn trực xạ. Ba nhân viên và
Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Đoàn 42 Ngăn-Chận, Hải-Quân Thiếu-Tá Phạm Ngọc Lộ, bị
thương. Nhưng cả bốn thương binh đều không chịu tản thương, chỉ vuốt máu, tiếp
tục chiến đấu!
Kể từ ngày 19 tháng 4, hễ Lực-Lượng 99
và Địa-Phương-Quân giải tỏa xong điểm chạm địch đối diện với rạch Cần-Đốt ngày
hôm trước thì ngày hôm sau Việt-Cộng lại chuyển vận súng lớn trở lại địa điểm
này.
Trong thời gian này, mỗi ngày, tiểu
đoàn pháo của Công-Trường 7 Việt-Cộng nã vào Long-An từ 40 đến 60 quả 122 ly!
Bằng mọi giá, Việt-Cộng quyết tiêu
diệt Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 99; vì Lực Lượng này là trở ngại lớn cho cuộc kéo quân
của các Công-Trường Việt-Cộng về Long-An.
Đêm 20 tháng 4, trong khi Lực-Lượng 99
đang “nằm” gần cầu Long-An thì người nhái Việt-Cộng lội ra giang đỉnh, bám vào
thành tàu, leo lên ngay chiến đỉnh của người nhái Hải-Quân V.N.C.H. Tất cả
người nhái Việt-Cộng đều bị hạ trước khi hành động!
Đêm 21 tháng 4, Lực-Lượng 99 “đổ” toán
Hải-Kích – do Đại-Úy Hiền chỉ huy – lên bờ đối diện rạch Cần-Đốt. Khi còn cách
bờ khoảng 30 thước, Hải-Quân phát hiện Việt-Cộng đông quá! Thấy Đại-Úy Hiền tỏ
vẻ ngần ngại, Đại-Tá Dõng ra lệnh rút; vì Ông nghĩ rằng khi Hải-Kích không chấp
nhận trận chiến thì không thể nào quân ta vào được.
Cánh quân của Công-Trường 9 Việt-Cộng
từ Cái-Bè tiến đến Bến-Tranh thì gặp sự kháng cự của một Trung-Đoàn thuộc
Sư-Đoàn 7 Bộ-Binh. Lúc địch kéo về đến rạch Cần-Đốt lại “đụng” lực lượng Địa-Phương-Quân
phòng thủ tại đây.
Cũng thời điểm này, Sư-Đoàn 22
Bộ-Binh, dưới sự chỉ huy của Chuẩn Tướng Phan Đình Niệm, từ Qui-Nhơn về
Bến-Lức, đang tái trang bị, không xuất trận. Nhưng khi Cầu Voi bị tấn công,
Tướng Niệm chỉ thị một Trung-Đoàn thuộc Sư-Đoàn 22 Bộ-Binh đến giải tỏa, nhưng
không giải tỏa được.
Nhận thấy áp lực địch đè nặng trên
vùng trách nhiệm của Đại-Tá Lê Hữu Dõng, Phó-Đề-Đốc Nghiêm Văn Phú, Tư-Lệnh
Lực-Lượng Tuần-Thám, đem toàn Bộ-Tham-Mưu đến Long-An hỗ trợ Đại-Tá Dõng.
(Trước khi trở thành Chỉ-Huy-Trưởng Lực-Lượng 99, Đại-Tá Dõng đã là Tư-Lệnh-Phó
Lực-Lượng Tuần-Thám). Tháp tùng Bộ-Tham-Mưu Lực-Lượng Tuần-Thám là bác sĩ Trần
Quốc Dũng, vị y-sĩ được tất cả đơn vị Hải-Quân cũng như đồng bào và quân bạn
tại bệnh viện Long-An mến phục.
Từ giữa tháng 4, hầu như tất cả bác sĩ
trong tỉnh Long-An đều di tản. Mỗi ngày số thương vong do đại bác của địch và
thương binh từ các mặt trận đưa về nườm nượp, nhưng khó tìm ra được một vị
y-sĩ!
Ngoài những lúc hành quân với
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 99 để săn sóc thương binh tại trận địa, vị y-sĩ tốt nghiệp
khóa 16 Trưng Tập, Trần Quốc Dũng, cùng với trung sĩ y-tá tên Thông, chưa kịp
cất áo giáp, nón sắt, đã vội vàng đến ngay bệnh viện Long-An để cấp cứu nạn
nhân chiến tranh.
Lúc này xác thường dân chết vì hỏa tiễn
Việt-Cộng nằm rải rác ven đường. Vô số người bị thương được đưa đến bệnh viện
Long-An. Tại phòng nhận bệnh, nạn nhân chiến tranh nằm la liệt mà chỉ có hai
y-tá phụ trách! Trong số những nạn nhân, một người bị mảnh pháo kích ghim nơi
ngực, thở không được.
Biết rằng nạn nhân này cần phải được
giải phẫu cấp kỳ, bác sĩ Dũng và y-tá Thông đẩy ngay người này vào phòng mổ.
Dụng cụ giải phẫu và thuốc men đều bị khóa kín trong tủ. Trong khi bác sĩ Dũng
và y-tá Thông đập bể tủ, thực hiện cuộc “giải phẫu dã chiến” cứu sống nạn nhân
thì Việt-Cộng pháo nặng hơn. Kho dầu và kho đạn Long-An trúng đại pháo. Và, ít
nhất, có hai hỏa tiễn rơi ngay bệnh viện, gây thêm rất nhiều tử vong!
Nghe bệnh viện trúng đạn pháo kích,
thân nhân dùng đủ mọi phương tiện để di chuyển người thân của họ ra khỏi bệnh
viện. Bác sĩ Dũng và y-tá Thông vẫn tiếp tục băng bó, săn sóc, cấp cứu nạn nhân
trong những tiếng nổ rền trời của từng đợt hỏa tiễn do Việt-Cộng nã vào thành
phố Long-An.
Trưa 29 tháng 4, lưu thông trên quốc
lộ 4 bị gián đoạn. Vì cảm mến đức tính can cường của Thiếu-Tá Phạm Ngọc Lộ
trong những lần chạm địch suốt mấy ngày qua, Đại-Tá Dõng hỏi Thiếu-Tá Lộ có
muốn đưa tàu về Saigon đón gia đình hay không? Nếu muốn, cứ lấy hai ASPB – trợ
chiến đỉnh trang bị súng phun lửa – mà đi. Thiếu-Tá Lộ cho hai ASPB rời vùng
hành quân về Saigon đón gia đình, còn Ông ở lại với đơn vị.
Không hiểu tại sao câu chuyện giữa
Đại-Tá Dõng và Thiếu-Tá Lộ đến tai Phó-Đề-Đốc Nghiêm Văn Phú.
Từ khi đến Long-An, Phó-Đề-Đốc Phú là
vị sĩ quan thâm niên hiện diện, được tất cả đơn vị Hải-Quân trong vùng xem như
Tư-Lệnh hành-quân. Đối với Hải-Quân, không ai lạ gì cá tính nghiêm khắc, độc
đoán của vị sĩ quan tốt nghiệp khóa II sĩ quan Hải-Quân Nha-Trang này. Nhưng,
bù lại, Phó-Đề-Đốc Phú rất xuề xòa và thường âm thầm lo lắng cho thuộc cấp; vì
vậy Ông được thuộc cấp đặt danh hiệu là Bố-Già.
Chiều 29 tháng 4, khoảng 6 giờ 30,
Phó-Đề-Đốc Phú cho tập họp tất cả thuyền trưởng của Giang-Đoàn 42 Ngăn-Chận, Đại-Tá Dõng, Thiếu-Tá Lộ và Thiếu-Tá Chiến Binh Vĩnh Đính,
Tham-Mưu-Phó Hành Quân Lực-Lượng Tuần-Thám. Trước mặt mọi người, Phó-Đề-Đốc
Nghiêm Văn Phú, Tư-Lệnh Lực-Lượng Tuần-Thám, kiêm Tư-Lệnh Đặc-Nhiệm 212, tuyên
bố truất quyền chỉ huy của Thiếu-Tá Lộ và chỉ định Thiếu-Tá Vĩnh Đính làm
Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Đoàn 42 Ngăn-Chận, thay thế Thiếu-Tá Lộ! Mọi người, kể cả
Đại-Tá Dõng, đều sửng sốt đến không nói được một lời! Sau này, Đại-Tá Dõng mạnh
dạng xác nhận sự im lặng của Ông vào chiều hôm đó là một lầm lẫn!
Sở dĩ cho đến chiều 29 tháng 4 mà toàn
tỉnh Long-An vẫn chưa có phần đất nào bị Việt-Cộng kiểm soát là nhờ hai yếu tố
sau đây:
§ Liên-Đoàn
Địa-Phương-Quân của Tiểu-Khu Long-An là một lực lượng tinh nhuệ. Nếu so sánh
Liên-Đoàn Địa-Phương-Quân này với những lực lượng chính quy của V.N.C.H. như
Nhảy-Dù, Thủy-Quân-Lục-Chiến, Biệt-Động-Quân, v. v… thì sức chiến đấu dai dẳng
và can cường của Liên-Đoàn Địa-Phương-Quân này sẽ ngang ngửa chứ không kém.
Chính Liên-Đoàn Địa-Phương-Quân này đã “chôn chân” Công-Trường 7 Việt-Cộng bên
kia kinh Thủ-Thừa.
§ Sự
quyết định nhanh chóng của Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang, Tư-Lệnh Hải-Quân V.N.C.H.
khi đưa Lực-Lượng 99 vào trận địa đúng thời điểm.
Tối 29 tháng 4, đích thân Phó-Đô-Đốc Cang gọi
máy, chỉ thị Đại-Tá Lê-Hữu-Dõng đưa toàn Lực-Lượng 99 ra sông Soài-Rạp. Nhưng
Đại-Tá Dõng xin ở lại 24 giờ đồng hồ nữa; vì Long-An “chưa hề hấn gì” và tinh
thần chiến đấu của binh sĩ còn hăng.
Cũng thời điểm này, Đại-Úy Trưởng
Phòng An-Ninh Lực-Lượng Tuần-Thám – theo lệnh của Phó-Đề-Đốc Phú – vào bệnh
viện đưa bác sĩ Dũng di tản. Bác sĩ Dũng bảo: “Đại-Úy thưa với Tư-Lệnh, nếu
Tư-Lệnh muốn chạy thì cứ chạy đi. Tôi ở lại với anh em.”
Sáng 30 tháng 4, Việt-Cộng vẫn tiếp
tục pháo hỏa tiễn vào Long-An. Đại-Tá Dõng gặp Đại-Tá Huyến, Tỉnh Trưởng
Long-An. Đại-Tá Huyến tỏ vẻ thất vọng vì không liên lạc được với thẩm quyền nào
cả. Đại-Tá Dõng hỏi dò Đại-Tá Huyến về ý định di tản. Đại-Tá Huyến Lắc đầu: “Anh em còn đang chiến đấu, tôi đi không
đành. Bao giờ đem được anh em về hết tôi sẽ đi.”
Khi nghe lệnh đầu hàng của Tổng Thống
Dương Văn Minh, Đại-Tá Dõng cho một chiếc Jeep đi tìm bác sĩ Dũng. Sau đó,
Đại-Tá Dõng đưa Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 99, Giang-Cảnh, Cảnh Sát, Đại-Đội
Tuần-Giang, v.v…theo Vàm-Cỏ-Tây, ra sông Soài Rạp. Điểm hẹn là Bắc-Cầu-Nổi. Lúc
này, cờ Mặt-Trận Giải-Phóng Miền-Nam cắm đầy hai bên bờ sông.
4 giờ chiều, mấy trăm chiến đỉnh của
nhiều đơn vị Hải-Quân tụ tập tại
Bắc-Cầu-Nổi. Cũng lúc đó, mọi người
thấy Phó-Đề-Đốc Nghiêm Văn Phú – người
trở lại từ HQ 502 để đón những đơn
vị của Ông ra trễ – trên một
Đại-Tá Dõng kiểm soát tất cả đơn vị xong, trình lên
Phó-Đề-Đốc Phú rằng các đơn vị đã đến điểm hẹn gần đầy đủ. Phó-Đề-Đốc Phú đáp: “Tốt”.
4 giờ 20 chiều, tại Bắc-Cầu-Nổi,
Đại-Tá Dõng, được xem như vị đại diện Hải-Quân trong vùng, tuyên bố giải tán
những đơn vị Hải-Quân!
Sau đó, người nào đi thì dồn lên những
LCM hoặc
Nhìn những chiến đỉnh không người lái,
cứ quay vòng vòng rồi chìm từ từ, hầu như mọi người đều nén ngậm ngùi. Thượng
sĩ D., thuộc Giang-Đoàn 40 Ngăn-Chận, không nén được xúc động, đã bật khóc và
gào lên: “Chính phủ ơi! Con tàu ơi!”
Cũng trong tình huống đó, Hải-Quân
Đại-Úy H., Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Đoàn 59 Tuần-Thám, từ LCM8 nhảy xuống một
**
PHỎNG VẤN
ÔNG
RICHARD
Nguyên Phụ-Tá Tổng-Trưởng Quốc-Phòng Hoa-Kỳ
ĐML: Xin Ông vui lòng cho biết nhiệm
vụ của Ông tại Việt-Nam vào khoảng tháng 3 và tháng 4 năm 1975.
Armitage: Tháng 3 năm 1975, tôi sang Việt-Nam với tư cách riêng. Tháng 4, theo
yêu cầu của Phụ-Tá Tổng-Trưởng Quốc-Phòng Hoa-Kỳ, ông Erich Von Marbod, tôi
tháp tùng Ông, trở lại Việt-Nam để di chuyển quân cụ và dân chúng trong trường
hợp Bắc Việt tiếp tục tấn công.
ĐML:Ngày 28 tháng 4, Phó-Đề-Đốc Đinh
Mạnh Hùng cùng Ông bay lên cầu Bình-Lợi, Biên-Hòa. Xin Ông vui lòng cho biết
nhiệm vụ của Ông và tình hình lúc ấy như thế nào?
Armitage: Phó-Đề-Đốc Hùng rủ tôi cùng đi với Ông đến căn cứ Hải-Quân Long-Bình để
thị sát và cũng để khích lệ tinh thần binh sĩ ở đó.
Áp
lực của Bắc quân rất nặng. Căn-Cứ Hải-Quân đã bị tấn công lúc sáng sớm và đang chờ
đợi một cuộc tấn công khác có thể xảy đến bất cứ lúc nào. Chứng tích xâm lăng
của Bắc quân còn trên đường, ngay cổng trại.
Tôi
cũng thấy từng suối người tuôn về Saigon. Điều đó cho thấy Việt-Cộng về rất gần
cho nên đồng bào hoảng sợ, đi tìm sự bảo vệ từ phía Việt-Nam Cộng-Hòa.
Sau
đó Đô-Đốc Hùng và tôi trở về Saigon bằng xe Jeep và tôi đã phúc trình tất cả
lên ông Von Marbod.
ĐML: Xin Ông vui lòng cho biết khái
quát về kế hoạch của Hoa-Kỳ nhằm giúp Hải-Quân Việt-Nam và gia đình di tản vào
thời gian cuối cuộc chiến?
Armitage: Tôi nghĩ kế hoạch Hoa-Kỳ giúp Hải-Quân Việt-Nam di tản rất hạn hẹp.
Hoa-Kỳ chỉ chuẩn bị một cách tổng quát cho một cuộc di tản với nhân số phỏng
định chứ không có kế hoạch tỉ mỉ. Chương trình giúp Hải-Quân Việt-Nam được phát
họa vào giờ phút chót.
Chúng
tôi khuyên Hải-Quân Việt-Nam đưa gia đình vào tạm trú tại các Căn-Cứ Hải-Quân.
Nếu một biến động nào xảy đến, gia đình và người thân của Hải-Quân sẽ được đưa
ra biển để bảo toàn sinh mạng.
Lúc
đó, vì chính phủ Hoa-Kỳ chưa dự trù một phương kế nào cho Hải-Quân Việt-Nam cả,
cho nên tôi chỉ thông báo với Hải-Quân Việt-Nam rằng: Nếu tình thế bắt buộc hãy
cố gắng đến Côn-Sơn, tôi sẽ gặp tất cả ở đó.
Mọi
quyết định liên quan đến Hạm-Đội Việt-Nam từ Côn-Sơn đến Phi-Luật-Tân đều do
những biến chuyển tình hình lúc đó tạo nên chứ không hề có một sự chuẩn bị nào
cả.
ĐML: Xin Ông làm ơn cho biết Ông có
những liên hệ mật thiết nào với Hải-Quân Việt-Nam hay không?
Armitage: Có. Nhiều lắm. Khi còn phục vụ trong quân chủng Hải-Quân Hoa-Kỳ, tôi
được dịp sát cánh với Hải-Quân Việt-Nam tại những đơn vị chiến đấu như
Duyên-Đoàn 35 ở Vĩnh-Bình, Giang-Đoàn 54 Tuần-Thám ở Tây-Ninh, Duyên-Đoàn 21 ở
Tam-Quan. Tôi cũng là cố vấn huấn luyện các khóa sĩ quan đặc biệt Hải-Quân
(Naval OPS Adviser). Các khóa đặc biệt này dành cho tất cả sĩ quan thuộc các
quân, binh chủng khác được biệt phái sang Hải-Quân.
ĐML:Thưa, có bao nhiêu chiến hạm thuộc
Đệ Thất Hạm-Đội Hoa-Kỳ trợ giúp Hạm-Đội Hải-Quân Việt-Nam trong hải phận quốc
tế?
Armitage: Hai chiến hạm Hoa-Kỳ đã hộ tống Hải-Quân Việt-Nam đến Phi-Luật-Tân; đó
là không kể những tiếp-liệu-hạm đã tiếp tế nhiên liệu. Một trong hai chiếm hạm
đó là USS Kirk.
ĐML:Thưa Ông, sau cuộc chiến, Hải-Quân
Việt-Nam trao trả lại cho Hải-Quân Hoa-Kỳ bao nhiêu chiến hạm? Bây giờ những chiến
hạm đó được xử dụng như thế nào?
Armitage: Tôi nghĩ rằng khoảng 31 chiến hạm, kể cả những chiến hạm bị đánh chìm.
Những chiến hạm khiển dụng được trao cho Hải-Quân Phi-Luật-Tân.
ĐML:Nhiều người thuộc Hải-Quân
Việt-Nam cho tôi hay rằng Ông nói tiếng Việt rất lưu loát và Ông có tên
Việt-Nam là Phú, đúng không, thưa Ông?
Armitage: Hồi đó tôi nói được tiếng Việt. Bây giờ, sau 15 năm không xử dụng, tôi
không biết vốn liếng tiếng Việt của tôi còn được bao nhiêu nữa.
Những
người bạn Việt-Nam đặt tên Việt cho tôi là Trần Văn Phú.
Trần:
Họ của Đức Thánh-Tổ Hải-Quân, Trần Hưng Đạo.
Văn:
Chữ đệm cho tên đàn ông.
Phú:
Giàu sang, do dịch nghĩa từ tên thật của tôi, Richard, cũng đọc là Rich.
ĐML:Xin Ông cho biết, Ông nghĩ như thế
nào về Hải-Quân V.N.C.H. trong cuộc chiến và những ngày cuối của cuộc chiến?
Armitage: Tôi nghĩ về Hải-Quân V.N.C.H. như thế nào hẳn mọi người đều biết rồi.
Tôi tin tưởng và ngưỡng phục họ. Tôi ao ước được tiếp tục chiến đấu bên cạnh
họ.
ĐML: Xin cảm ơn Ông.
--:o0o:--