Các chính sách của Obama &
hội chứng Carter
Trần Bình Nam
Nói chung mỗi vị tổng thống Hoa Kỳ có
một chính sách ngoại giao khác nhau, nhưng đều có thể phân loại một cách tổng
quát trong 4 chính sách mẫu mực gọi là chính
sánh Hamilton, Jefferson, Jackson hay Wilson.
Ông Alexander Hamilton (bộ trưởng bộ
tài chánh Hoa Kỳ sinh năm 1755, mất năm 1804 chủ trương Hoa Kỳ cần một chính phủ và một quân đội hùng mạnh và cần theo đuổi một đường lối
ngoại giao thực tế toàn cầu nhắm phát triển kinh tế phục vụ quyền lợi của Hoa
Kỳ trong cũng như ngoài nước. (TBN: trong bài viết này danh từ “chính sánh
Hamilton” được dùng khi nói đến chính sách/đường lối ngoại giao này). Tiêu biểu
cho chính sách Hamilton là các tổng thống Theodore Roosevelt và George H. W.
Bush (Bush lớn).
Tổng thống Woodrow Wilson (tổng thống
thứ 28, Dân Chủ 1913-1921) chủ trương Hoa Kỳ cũng cần một chính sách ngoại giao toàn cầu như Hamilton nhưng chiến lược
chính yếu là tạo điều kiện thúc đẩy dân chủ và nhân quyền trên thế giới
(TBN: gọi là “chính sánh Wilson”). John F. Kennedy là vị tổng thống điển hình
của chính sách Wilson.
Chính sách ngoại giao của tổng thống
Thomas Jefferson (tổng thống thứ 3, thuộc đảng Jeffersonian 1801-1809) ngược
lại với các chính sách Hamilton và Wilson. Jefferson chủ trương Hoa Kỳ không cần lo chuyện bao đồng của thế giới và do đó
không cần xây dựng một bộ máy an ninh tốn kém. (TBN: chính sách này gọi là
“chính sánh Jefferson”). Các tổng thống Quincy Adams, Dwight D. Eisenhower từng
theo đuổi đường lối Jefferson.
Sau cùng tổng thống Andrew Jackson
(tổng thống thứ 7, Dân Chủ 1829-1837) chủ trương tập trung quyền hành vào tay hành pháp, chính yếu là tổng thống, bành
trướng lãnh thổ và khuyến khích dân chúng tham gia việc nước (populist
trong một nghĩa nào đó). Người theo chủ trương Jackson cho rằng chính sách
Wilson là thơ ngây và chính sách Jefferson là yếu đuối. Tổng thống Ronald Reagan tiêu biểu chính sách Jackson.
Sau khi chiến tranh lạnh chấm dứt,
tổng thống George H. W. Bush theo đuổi
chính sách Hamilton. Trong khi đó Clinton theo đuổi chính sách giữa Hamilton và
Jefferson. Dưới ảnh hưởng của chính sách Hamilton, tổng thống Clinton đã chậm
chạp trong quyết định can thiệp tại Bosnia và Rwanda, cũng như không cứng rắn
với Trung quốc về mặt nhân quyền để khỏi tổn thương thương mãi. George W. Bush
theo đuổi chính sách Jackson và Wilson. Hai đường lối này đụng chạm nhau làm
cho chính quyền Bush (nhỏ) mất tính thống nhất và đã dọn đường cho Thượng nghị
sĩ Barack Obama vào Bạch Ốc.
Người ta không ngạc nhiên thấy sau
cuộc khủng bố ngày 11/9/2001 giết gần 3000 người, dân chúng Hoa Kỳ đã ủng hộ
một chính sách Jackson của Bush đánh Afghanistan rồi sẵn đà đánh Iraq. Sau khi
sa lầy tại Iraq vì không được sự ủng hộ của cộng đồng thế giới, tổng thống Bush
giải thích chiến tranh tại Iraq là để gieo rắc dân chủ. Chủ trương Wilson bỗng trở thành cột trụ của
chính sách ngoại giao Mỹ tại Trung đông. Khuynh hướng Jackson không thích công
việc gieo rắc dân chủ, nhưng vốn chủ trương “sức mạnh và không chịu thua ai”
nên mặc nhiên ủng hộ Bush. Cử tri thuộc hai khuynh hướng Wilson và Jackson đã
giúp Bush đắc cử nhiệm kỳ 2 (2005-2008) dễ dàng.
Đến tổng thống Obama.
Obama tranh cử và thắng lợi nhờ chủ
trương Jefferson vào lúc mà đa số người Mỹ nhất là giới trẻ trí thức không
thích con đường cực đoan bất nhất của Bush. Đắc cử tổng thống, ông Obama chọn
chính sách ngoại giao cho Hoa Kỳ là đường hướng Jefferson. Và con đường của
Obama không êm thắm như những tháng đầu năm 2009 vì khung cảnh của thế giới đã
thay đổi.
**
Thử nhìn lại khung cảnh thế giới trong
thế kỷ 19. Thời gian đó, Anh quốc là quốc gia cầm cân nẩy mực duy trì trật tự
thế giới, Hoa Kỳ không phải lo gì nên
theo đuổi chính sách Jefferson một cách thoải mái.
Bước vào thế kỷ 20, đế quốc Anh yếu
dần, Hoa Kỳ đứng trước hai lựa chọn . Hoặc thay thế nước Anh tạo ổn định mới
hay cứ theo chủ trương Jefferson trong một thế giới thiếu ổn định.Thoạt tiên
Hoa Kỳ chọn chủ trương Jefferson. Trong suốt 2 nhiệm kỳ đầu tổng thống Franklin
Roosevelt (Dân Chủ 1933-1945) (*), theo chính sách không can thiệp tại Âu châu
và Á châu. Các nước Đức, Nhật và Stalin không bị kềm chế, kết quả là chiến
tranh tại Âu châu, Thái Bình Dương và sau đó Trung quốc rơi vào tay cộng sản.
Bị buộc phải nhảy vào cuộc chiến, giúp
đánh bại Đức và Nhật kết thúc Thế chiến II, Hoa Kỳ thay đổi chính sách và trở
thành quốc gia lãnh đạo thế giới tự do qua sức mạnh kinh tế và quân sự. Thành
phần chủ trương Jefferson trở thành cái thắng giúp Hoa Kỳ không đi quá lố trong
chính sách ngoại giao toàn cầu. Nhưng cái khó là dung hòa các chính sách để vừa
phục vụ cộng đồng thế giới, phục vụ quyền lợi Hoa Kỳ, xiển dương tinh thần dân
chủ mà vẫn duy trì được cảm tình của thế giới. Về mặt này Hoa Kỳ thường không
khéo léo trong sự cân bằng các chính sách, xử sự theo cung cách huynh trưởng,
quá thực tế, và đó là nguyên nhân chính đưa đến tình trạng mâu thuẫn là Hoa Kỳ
mạnh, đôi khi rộng rãi với các nước khác nhưng không nhận được cảm tình đáp lại
như cái vốn đã bỏ ra.
**
Tổng thống Obama triển khai một chính
sách ngoại giao nặng về chủ trương Jefferson và ông thấy ngay rằng trong thế
giới “trong suốt” hôm nay chủ trương Jefferson không còn đất dụng võ.Từ thực tế
đó ông Obama điều chỉnh chính sách ngoại giao lúc thiên về quyền lợi nước Mỹ,
lúc ngã về các giá trị tinh thần của Hoa Kỳ (như ra lệnh đóng cửa nhà tù
Guantanamo, cấm tra tấn trá hình, vội vàng nhận giải hòa bình Nobel 2009). Cuối
cùng ông Obama được gĩ? Trong năm đầu tiên ông không xác định được một chính
sách đối ngoại rõ ràng đã làm hao mòn cái vốn liếng chính trị to lớn ông mang
vào tòa Bạch Ốc.
Phe Wilson và phe Jackson cho hành
động của tổng thống Obama không tiếp đức Dalai Lama trước khi đi Trung quốc
(tháng 11/2009) là hèn nhát. Và khi tổng thống Obama không lên tiếng ủng hộ
nhiệt tình các cuộc biểu tình đòi dân chủ tại Iran thì cử tri chủ trương
Hamilton cho rằng tổng thống Obama đang làm suy yếu thế chính tri của Hoa Kỳ
tại một vùng có tính quan trọng chiến lược.
Áp dụng đường lối Jefferson, tổng
thống Obama hòa hoãn với Liên bang Nga, Iran và Venezuela (của tổng thống Hugo
Chavez); hoà giải với khối Hồi giáo; ấn định lịch trình rút quân ra khỏi
Afghanistan (sau khi tăng quân); kêu gọi các nước đồng minh chia sẻ trách nhiệm
với Hoa Kỳ.
Các chính sách này có
thể thành công không?
(1) Liên bang Nga và
Iran có muốn hòa giải với Hoa Kỳ không hay xem chính sách của Obama là yếu và
lấn tới?
(2) Thành phần Hồi
giáo quá khích trên thế giới có vì chính sách mới của tổng thống Obama mà ngưng
các cuộc khủng bố hay càng bạo dạn hơn trong hành động?
(3) Rút quân ra khỏi Afghanistan nhưng có bảo
đảm Afghanistan không còn là nơi dung thân của khủng bô không?
(4) Hòa với Venezuela có làm cho Hugo Chavez
bớt “chống Mỹ” không?
(5) Các quốc gia (đồng minh) khác trên thế
giới có chia sẻ bớt gánh nặng của Hoa Kỳ khi Hoa Kỳ giảm trách nhiệm quốc tế
không?
Ít nhất cho đến giờ này câu trả lời
của các câu hỏi trên đều là KHÔNG. Nền chính trị thế giới không “tử tế” như những người ngoài đường chờ đợi .
Cái dùng dằng của tổng thống Obama
giữa cái điều ông muốn làm (vì lòng
ông muốn vậy và nhờ đó mà đắc cử) với cái
điều đã phải làm (vì thực tế chính trị buộc như vậy) làm cho các người chủ
trương chính sách Jefferson, Wilson hay Jackson đều tìm thấy nơi ông chuyện để
than phiền và đe dọa tư thế lãnh đạo chính trị của ông.
Cũng giống như tổng thống Jimmy Carter
(1977-1980). Carter theo trường phái Jefferson, nhưng lòng không dứt bỏ được
hoài bảo một thế giới Wilson. Vừa muốn thôi không làm “cảnh sát quốc tế” vừa
muốn đẩy mạnh lý tưởng tự do dân chủ với nước bọt, tổng thống Carter đã thất
bại. Hoa Kỳ vào những năm cuối của Carter giống như một chiếc thuyền buồm rách,
gió lặng, dấu hiệu của những triệu chứng thành tên: Hội chứng Carter.
Ngày 20/1/2009 khi nhậm chức tổng thống ông Obama thành thật
nói: “Tôi không chấp nhận là muốn bảo vệ
an ninh phải từ bỏ lý tưởng” (We reject as false the choice between our
safety and our ideals). Nhưng ông đã bị xâu xé mãnh liệt giữa ông với bộ máy
của đảng Dân Chủ, giữa ông với các cố vấn của ông và đôi khi đã phải bỏ lý
tưởng vì quyền lợi và an ninh quốc gia. Tổng thống Obama vẫn phải viện trợ cho
Pakistan dù có bằng chứng cơ sở tình báo của nước này ngầm giúp nhóm Taliban
tại Afghanistan. Ông Obama vẫn nhẹ nhàng với chính quyền Iran khi chính quyền
này trấn áp người biểu tình bất bạo động bằng bạo lực. Tổng thống Obama vẫn
dùng chính sách củ ca rốt với chính quyền Soudan khi chính quyền này theo đuổi
chính sách diệt chủng tại Darfur. Tất cả những việc làm trên có phải là làm ngơ
không đoái hoài đến dân chủ nhân quyền vì quyền lợi/an ninh quốc gia không?
Các chính sách tổng thống Obama hứa
như đóng cửa trại tù Guantanamo trong vòng một năm; sẽ cho điều tra các viên
chức vi phạm nhân quyền của chính phủ Bush; sẽ thông qua luật “Cap and Trade
Bill” (**) trước hội nghị quốc tế Copenhagen là những công việc phục vụ lý tưởng Hoa Kỳ (American ideals) ông
Obama đã không thực hiện được.
Đó là chưa nói đến
những vấn nạn trên thế giới sẽ đến trong năm 2010 buộc tổng thống Hoa Kỳ phải
có đối sách:
(1) Vòng đàm phán
Doha có thể sẽ không mang lại kết quả gì và tư thế của Tổ chức Mậu dịch Thế
giới (WTO) yếu dần khó làm nhiệm vụ trọng tài để chận đứng một trận chiến tranh
thương mãi.
(2) Miền nam Soudan
có khả năng tuyên bố độc lập với Khartuom và một trận nội chiến tàn khốc gấp
bội lần vụ Darfur không thể tránh.
(3) Yemen kỷ niệm 20
năm ngày lập quốc, và cũng có thể là ngày chấm dứt sự tồn tại của Yemen biến
Yemen thành một vùng đất dung thân cho quân khủng bố.
Còn nữa, như giá dầu thô lên cao và
tổng thống Ai Cập Hosni Mubarak (năm nay 81 tuổi) một trong những đồng minh
quan trọng của Hoa Kỳ trong thế giới Hồi giáo rời chính trường.
Các chính sách phản ảnh khuynh hướng
Jefferson như thuyết “be bờ” (containment) của George Kennan (***) sau Thế
chiến II, và chủ thuyết Monroe (****) đầu thế kỷ 19 đã có thể áp dụng một thời
gian dài với những kết quả cụ thể. Nhưng trong thế giới hôm nay các vấn đề quốc
tế tròng tréo vào nhau một cách phức tạp và các chính sách xuất phát từ chủ
trương Jefferson không thể giúp ổn định thế giới.
Khi bước vào Bạch Cung tổng thống Carter
có ước vọng gỉam chấm dứt chiến tranh lạnh với chính sách Jefferson. Nhưng 4
năm sau, khi ông rời chức vụ tổng thống thì Hoa Kỳ đang tích cực giúp du kích
Hồi giáo chống Liên bang Nga tại Afghanistan, ngân sách quốc phòng tăng và Hoa
Kỳ đang chuẩn bị đưa quân qua Trung đông.
Tổng thống Obama vào Bạch Ốc cũng với
chương trình (Jefferson) chấm dứt chiến tranh Iran và Afghanistan. Nhưng không
ai đoán được chiến tranh Afghanistan có thể chấm dứt sau nhiệm kỳ I của ông
không mặc dù ông đã có chương trình rút hết quân vào tháng 6 năm 2011. Đó là
chưa nói đến vào thời điểm đó quân đội Hoa Kỳ có đang chiến đấu tại một mặt
trận nào khác không. Lại những dấu hiệu của Hội Chứng Carter!
**
Khung cảnh của thế giới đổi thay một cách
căn bản trong thế kỷ 21 này. Trọng tâm các vấn đề lớn chuyển từ vùng Đại Tây
Dương qua Thái Bình Dương. Nhiều nước mất ảnh hưởng (Âu châu …), nhiều nước
vươn lên (Trung quốc, Ấn Độ …). Cho nên Hoa Kỳ cần lượng định lại chính sách
đối ngoại trong khung cảnh mới sao cho phù hợp với tiềm lực của mình. Mọi chính
sách không dựa vào khả năng và vốn liếng của mình sẽ thất bại.
Tổng thống Obama là một người có lý
tưởng. Ông may mắn được lịch sử dành cho một cơ hội. Nhưng chính sách ngoại
giao dựa trên thiện chí của ông không đủ và cần một chính sách mới uyển chuyển
hơn.
Tổng thống Obama đang lúng túng ở ngả
ba đường và sự lúng túng đã làm cho các khuynh hướng chính trị Wilson,
Jefferson. Hamilton, Jackson đều có cớ để bất mãn với ông. Nếu tổng thống Obama
không tìm ra một chính sách đối ngoại phù hợp với thực tế thế giới và hợp với
khả năng của Hoa Kỳ thì tương lai chính trị của ông cũng sẽ không khác tương
lai của vị tổng thống đạo đức Jimmy Carter.
Hôm 26/1/2010, một ngày trước khi tổng
thống Obama đọc diễn văn về tình trạng liên bang, bà Diane Sawyer của đài ABC
đã phỏng vấn ông. Ông nói rằng ông sẽ tiếp tục các chương trình trong nước ông
đã đề ra, và ông nhấn mạnh rằng: “Chẳng thà tôi được tiếng là một tổng thống
tốt một nhiệm kỳ, hơn là một tổng thống hai nhiệm kỳ tầm thường” (I’d rather be
a really good one-term president than a mediocre two-term president”.
Câu trả lời này có phải là một tiên
đoán cho tương lai chính trị của chính ông không? Hãy chờ đến giữa năm 2011 khi
cuộc vận động bầu cử tổng thống cho nhiệm kỳ 2013-2016 bắt đầu.
Trần Bình Nam
Feb.
8, 2010
Ghi chú:
(*) Tổng thống Franklin Roosevelt không tuân theo quy ước bất
thành văn (một người chỉ làm tổng thống 2 nhiệm kỳ) và ra ứng cử nhiệm kỳ 3. Do
đó quốc hội Hoa Kỳ đã tu chính Hiến Pháp (tu chính số 22, hiệu lực từ ngày
27/2/1951) giới hạn 2 nhiệm kỳ.
(**) “Cap and Trade Bill”: dự luật cho phép công ty nào sản xuất
khí nhà kiếng (chính yếu là khí CO2) dưới tiêu chuẩn ấn định sẽ được điểm
thưởng (gọi là credits) và có thể bán điểm này cho công ty nào sản xuất nhiều
khí nhà kiếng trên tiêu chuẩn. Giới sản xuất tại Hoa Kỳ không thích dự luật
này.
(***) George F. Kennan
(1904-2005), nhà ngoại giao, sử gia, chuyên về khoa học chính trị và là cha đẻ
của thuyết “be bờ” chận sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản.
(****) Do tổng thống James Monroe (Cộng Hòa, 1917-1925), công bố
năm 1823 chia vùng ảnh hưởng trên thế giới giữa Âu châu và Mỹ châu và kêu gọi
Âu châu chấm dứt bành trướng thuộc địa.
Tài liệu tham khảo:
1.
“The Carter Syndrome”,
Foreign Policy, Jan. & Feb. 2010.
2.
“Tick, Tock: The bombs
awaiting Barack Obama in 2010”, Foreign Policy, Jan. & Feb. 2010.
3.
Google