Trần
Bình Nam
Theo lịch trình,
trong tháng 6/2013 Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ sẽ phán quyết về hai vụ kiện liên
quan đến hôn nhân giữa những người đồng
tính. Vụ kiện thứ nhất có tên là “Hollingsworth
v. Perry - công dân Hollingsworth
kiện bang California đại diện bởi bộ trưởng tư pháp California Perry” xuất
xứ từ bang California. Vụ kiện thứ hai có tên là “United
States v. Windsor - công dân Windsor kiện chính phủ Hoa Kỳ”
do bà Edith Windsor kiện tính hợp hiến của một luật liên bang. Về hình thức hai
vụ kiện khác nhau, nhưng nội dung chỉ là một và phán quyết của Tối cao Pháp
viện sẽ có một ảnh hưởng đến quy chế đối với hôn nhân giữa người đồng tính tại
Hoa Kỳ. Đó là lý do Tối cao Pháp viện đã dành ra hai ngày liên tiếp để nghe bên
nguyên và bên bị trình bày lý lẽ trước tòa. Ngày Thứ Ba 26/3/2013 tòa dành cho
vụ California. Ngày 27/3 dành cho vụ liên bang .
Bối cảnh của vụ California:
Trước năm 2000, tại California sự kết hôn giữa những người đồng tính hợp lệ. Năm 2000 cử tri California thông qua một Trưng cầu Ý kiến số 22 (Proposition 22 –
và trong bài viết sẽ được ghi là Prop 22.) Nội dung Prop 22 hỏi cử tri: “Có đồng ý cấm hôn nhân đồng tính
không?. Đa số cử tri đã trả lời “Yes”
nghĩa là “Đồng ý cấm” hôn nhân đồng tính. Nhưng một số đoàn thể dân California
đã kiện về “tính hợp hiến” của Prop 22 và đầu năm 2008 Tối cao Pháp viện
California đã phán quyết Prop 22 vi hiến. Phán quyết này gọi là phán quyết “Về hôn nhân – In re Marriages Cases”. Như vậy sau phán quyết này tại California
những người đồng tính vẫn tiếp tục có quyền kết hôn như trước năm 2000 .
Nhưng
thành phần vốn chống hôn nhân đồng tính không chịu thua. Họ gây quỹ, thu góp
chữ ký để đưa vụ đồng tính ra hỏi lại ý kiến cử tri. Một Trưng cấu Ý kiến lần này gọi là Prop 8 có nội dung không khác gì
Prop 22 lại được đưa ra trưng cầu trong cuộc bầu cử tháng 11/2008. Qua Prop 8, đa số cử tri lại không chấp nhận
hôn nhân đồng tính. Sự việc lại trở về điểm bắt đầu sau khi Prop 22 được thông
qua, nghĩa là người đồng tính không được kết hôn.
Lần
này những vụ phản đối và biểu tình diễn ra liên miên. Các cặp vợ chồng đồng
tính kiện tính hợp hiến của Prop 8 lên tòa liên bang. Ngày 4/8/2010 chánh án liên bang Vaughn Walker phán quyết
rằng Prop 8 không hợp với tinh thần Hiến pháp Hoa Kỳ. Những người ủng hộ Prop 8
kháng cáo. Ngày 7/2/2012 một Chi nhánh Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ Vùng 9 (Ninth
Circuit Court of Appeal) đồng ý với chánh án Walker. Và nội vụ với tên là vụ Hollingsworth v.
Perry (công dân Hollingsworth kiện bang California đại diện
bởi bộ trưởng tư pháp California Perry)
lên Tối cao Pháp viện ngày 26/3/2013. Và như đã nói Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ sẽ
phán quyết giá trị của Prop. 8 vào cuối tháng 6 .
Bối cảnh của vụ kiện liên bang:
Vụ kiện này liên quan đến bộ luật DOMA (Defense of
Marriage Act). Luật DOMA do quốc hội thông qua và tổng thống Clinton ký ban
hành ngày 21/9/1996 không cho phép
các cặp vợ chồng đồng tính đưọc hưởng quyền lợi hôn nhân của chính phủ liên
bang. Hệ lụy của DOMA là các cặp hôn nhân đồng tính lập hôn thú tại các tiểu
bang nào cho phép họ vẫn không được hưởng quyền lợi về thuế má của liên bang.
Hai bà Edith Windsor và Thea Spyer ở bang New York là hai người đồng tính đã sống và có bất động
sản chung với nhau trên 40 năm. Năm 2007 hai người chính thức lập hôn thú ở Toronto, Canada .
Năm
2009 bà Thea Spyer chết và Sở Thuế Liên bang (Internal Revenue Service – IRS)
áp dụng luật DOMA buộc bà Edith Windsor trả 363.053 mỹ kim tiền thuế bất động sản bà thừa hưởng của bà Spyer.
Nếu
hai người được hưởng quyền lợi liên bang về vợ chồng (trường hợp luật DOMA
không có hiệu lực chẳng hạn) thì theo luật thuế bà Windsor khỏi phải trả tiền
thuế trên. Bà Windsor đem vụ kiện tính hợp hiến của DOMA gọi là vụ kiện “United
States v. Windsor - Công dân Windsor
kiện chính phủ Hoa Kỳ”lên Tối cao Pháp
viện.
Hiện
tượng người đồng tính có từ khi có loài người và là một biểu hiện bẩm sinh. Họ
không có tội lỗi gì cả. Người đồng tính có thể sống bên cạnh người thân trong
gia đình, có khả năng học và làm việc như mọi người và biểu lộ tình yêu đối với
người đồng tính khác. Và khi quan hệ xã hội chưa phức tạp không ai kỳ thị người
đồng tính, ngoại trừ một số tôn giáo.
Tại Hoa Kỳ, dư luận bắt đầu đề cập đến vấn đề
đồng tính từ năm 1970 khi ông Jack Baker một người đồng tính kiện bang
Minnesota vì không cho phép ông lập hôn thú với một người bạn trai. Ông Baker
thua kiện vì Tối cao Pháp viện bang Minnesota phán quyết rằng chỉ có “hôn nhân giữa hai người khác giống nhau mới
có giá trị và không trái với tinh thần Hiến Pháp Hoa Kỳ”. Để hợp luật ông Baker đổi tên thành một phụ nữ là Pat Lynn
McConnell và lập hôn thú với bạn trai của ông năm 1971.
Sau
vụ Baker, dư luận báo chí im lặng một thời gian về chuyện người đồng tính. Cho
đến năm 1979 tổ chức IntegrityUSA, một tổ chức của người đồng
tính đặt vấn đề chất vấn tại sao nhánh Tin lành Episcopian không cho người đồng
tính làm mục sư. Và năm 1981 sau khi tổng thống Reagan đắc cử, không khí bảo
thủ lên cao, Bộ quốc phòng Hoa Kỳ ban hành quy chế ghi rõ: “người đồng tính luyến ái không thích hợp
phục vụ trong quân đội” (1).
Trong
thập niên 1980 phong trào chống Bộ quốc phòng kỳ thị người đồng tính âm ỉ và càng
được hâm nóng hơn vào cuối thập niên 1980 khi vấn đề thừa kế tài sản và hưởng
quyền lợi tử tuất giữa người đồng tính có hôn thú với nhau với nhau được nêu
ra.
Trong
10 năm cuối cùng của thế kỷ 20 và 10 năm đầu của thế kỷ 21 các tòa án liên bang
và tiểu bang khá bận rộn với các vụ kiện liên quan đến người đồng tính mà cao
điểm là hai vụ kiện “Hollingsworth v.Perry và United States v. Windsor” Tối cao Pháp viện
Hoa Kỳ sẽ phán quyết trong hai tháng nữa. Phán quyết của Tối cao Pháp viện sẽ
có một trọng lượng đối với vấn đề hôn nhân giữa người đồng tính tại các tiểu
bang Hoa Kỳ .
Bàn đến phán quyết
của Tối cao Pháp viện các nhà bình luận thường dựa theo quan điểm của 9 vị thẩm
phán Tối cao Pháp viện. Trong 9 thẩm phán hiện nay 4 thẩm phán Anthonin Scalia, Clarence Thomas, Samuel A
Alito và Chủ tịch John Roberts bảo thủ có thể sẽ bỏ phiếu chống người đồng
tính; 4 thẩm phán Ruth Bader Ginsburg , Stephen Breyer, Sonia
Sotomayor và Elena Kagan
phóng khoáng có thể bỏ phiếu ủng hộ nên phiếu của thẩm phán Anthony Kennedy có
thể sẽ là phiếu quyết định.
Nhưng
không có gì chắc chắn cả. Nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến suy tư của các vị thẩm phán. Nếu cái phiếu
bất ngờ của ông Chủ tịch John Roberts đã cứu sống bộ luật “Obamacare” (2),
thì cũng có thể một phiếu bất ngờ nào đó của một trong 9 vị thẩm phán Tối cao
Pháp viện sẽ quyết định “thân phận” của những người đồng tính./.
Trần Bình Nam
Apr. 19, 2013
Chú thích:
(1)
Xem: www.tranbinhnam.com àBình luận, tài liệu số 354 tháng 6/2010 (DontAskDontTell)
(2)
Xem: www.tranbinhnam.com àBình luận, tài liệu số 433 tháng 7/2012 (Obamacare )