Nhân Tết Nhâm Thìn, nhớ lại
Hai mươi sáu ngày tang thương của Huế
Trần Bình Nam
Tết Nhâm Thìn 2012 đến nhắc người Việt, nhất là người dân Huế nhớ đến Tết Mậu Thân 1968. Cách đây đúng 44 năm, vào đêm mồng một Tết rạng mồng Hai (*) quân đội cộng sản mở cuộc tấn công quy mô trên toàn quốc,
trong đó có
thủ đô Sài gòn và thành phố Huế. Đêm trước – đêm Giao Thừa - trong khi thỏa thuận ngưng bắn 36 giờ để dân ăn Tết còn hiệu lực, cộng quân đã đánh vào một số thị trấn nhưng ở một quy mô nhỏ.
Cuộc tấn công của cộng quân vào thành phố Huế mở màn cho 26 ngày tang thương, 26 ngày kinh hoàng của lịch sử kinh thành Huế. Trong hơn một thế kỷ, Huế chỉ trải qua hai lần bom đạn. Lần thứ nhất “kinh đô thất thủ” năm 1883 khi Pháp đưa chiến thuyền ngược sông Hương pháo kích kinh đô Huế. Lần thứ hai khi cuộc tòan quốc kháng chiến bắt đầu, quân đội Việt Minh bao vây đánh các
đơn vị Pháp đóng tại Huế vào cuối năm 1946, đầu năm 1947.
**
Hai mươi sáu ngày tang thương của Huế trong dịp Tết Mậu Thân 1968 được quyết định tại phiên họp Trung ương đảng của đảng cộng sản Việt Nam tại Hà Nội tháng Tư năm 1967 ….
Ngược một chút dòng lịch sử. Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ từ tháng 12 năm 1946 đưa đến sự bại trận của quân Pháp tại Điện Biên Phủ năm1954 và Việt Nam bị chia đôi ngang vĩ tuyến 17. Miền Bắc cộng sản, miền Nam cho người quốc gia.
Thời gian 8 năm kháng chiến (1946-1954) là thời gian
tế nhị của lớp sĩ phu và những người Việt Nam có lòng với đất nước. Hầu hết theo phong trào chống Pháp và nằm trong guồng máy lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam. Một số trở thành người cộng sản. Một số khác không nhỏ trong thời gian kháng chiến thấy được bộ mặt thật của chủ nghĩa cộng sản đã bỏ về thành phố. Hầu hết thành phố do người Pháp quản lý với một chính quyền “gọi là quốc gia” làm bình phong
nên không có chính nghĩa cho dù trong thời gian
8 năm người Pháp vì nhu cầu chính trị và áp lực của Hoa Kỳ đã trao trả một ít quyền hành và danh nghĩa cho
ông Bảo Đại. Trong bối cảnh chính trị đó, những người bỏ hàng ngũ cộng sản về thành không có chỗ đứng. Họ bơ vơ trong cảnh hàng thần lơ láo.
Sau khi chia đôi Việt Nam,
người Pháp rút về, Hoa Kỳ giúp hạ bệ ông Bảo Đại, thành lập Việt Nam Cộng Hòa với đầy dủ danh nghĩa một chính quyền quốc gia dưới sự lãnh đạo đầu tiên của tổng thống Ngô Đình Diệm.
Chính sách của Hoa Kỳ là giúp xây dựng một miền Nam Việt Nam phú cường, ổn định và tự do dân chủ để nhân dân miền Nam phát huy nội lực tự bảo vệ trước cuộc tấn công của miền Bắc. Xương sống của chính sách là miền Nam
có một chính quyền quốc gia được sự hậu thuẫn của dân.
Rất tiếc do hoàn cảnh lịch sử điều kiện trên không thực hiện được. Bối cảnh lịch sử lúc đó là:
(1) nhân dân miền Nam chưa hiểu chủ nghĩa cộng sản là gì, và có cảm tình với những người lãnh đạo cộng sản vì họ vừa lãnh đạo thành công một cuộc đấu tranh giành độc lập.
(2) các chính khách và quân nhân lãnh đạo bộ máy chính trị và quân sự miền Nam Việt Nam hầu hết là sản phẩm của bộ máy cai trị của người Pháp để lại.
Trong số này tuy có thành phần ưu tú, nhưng thiếu phẩm chất của những nhà ái quốc chân chính. Từng là một bộ phận trong bộ máy cai trị của Pháp họ không ý thức được thế nào là tự do và thế nào là dân chủ. Một vài ý niệm dân chủ, tự do do người Pháp mang lại nhiều lắm giúp họ ca ngợi cái đẹp của tự do dân chủ nhưng chỉ ý thức lờ mờ rằng cái tự do dân chủ đó để dành cho từng lớp thống trị hay hợp tác với tầng lớp thống trị chứ không phải dành cho nhân dân Việt Nam chân lấm tay bùn. Vì vậy họ không thể hòan thành nhiệm vụ lịch sử là mang đến cho quần chúng một tinh thần ao ước tự do quyết tâm đổ mồ hôi và nều cần bằng máu để bảo vệ nếp sống trong tự do và dân chủ của mình.
Với tâm lý quần chúng đó, với dàn nhân sự đó, cộng với sự lãnh đạo vụng về của tổng thống Ngô Đình Diệm nên dù có tinh thần yêu nước cao và được sự giúp đỡ tận tình của Hoa Kỳ ông vẫn không xây dựng nổi một miền Nam phú cường và dân chủ.
Trong bối cảnh đó miền Bắc dốc toàn lực tổ chức tuyên truyền phá hoại chế độ và đưa quân trá hình xâm lăng
miền Nam.
Để củng cố miền Nam, tháng 11/1963 Hoa Kỳ thay thế lãnh đạo bằng cách lật đổ chế độ ông Diệm. Nhưng các chế độ quân nhân thay thế ông Diệm tệ hơn chế độ ông Diệm. Trước nguy cơ sụp đổ, Hoa Kỳ không có sự lựa chọn nào khác là đưa quân vào miền Nam chiến đấu đồng thời oanh tạc miền Bắc Việt Nam để ngăn làn sóng đỏ chiếm Nam Việt Nam rồi tràn ra toàn vùng Đông
Nam Á và nam Thái Bình Dương đe dọa Úc châu theo chủ thuyết Domino rất được ưa chuộng vào lúc đó.
Tháng Ba, 1965 Hoa Kỳ đổ bộ đơn vị Thủy quân Lục chiến đầu tiên lên Đà Nẵng. Đáp lại Hà Nội đưa các Sư đoàn chính quy vào miền Nam. Hoa Kỳ tiếp tục đổ quân. Từ tháng Ba 1965 đến cuối năm 1967 Hoa Kỳ đưa
485.000 binh sĩ đến miền Nam, trong đó có Sư đoàn Kỵ binh không vận, một sư đoàn tân lập di chuyển hoàn toàn bằng trực thăng.
Cuối năm 1965 quân đội Hoa Kỳ và quân chính quy Bắc Việt thử sức nhau trong thung lũng sông Ia Drang trên cao nguyên miền Trung. Hai bên chịu nhiều tổn thất, và sau cùng quân đội cộng sản không chịu nổi rút quân qua Cambốt.
Đối với Hoa Kỳ bây giờ là giải pháp quân sự chứ không còn là giải pháp tạo ổn định để chiến thắng về mặt chính trị nữa. Sau cuộc thử lửa tại cao nguyên Hoa Kỳ thực hiện nhiều cuộc hành quân càn quét các
ổ đóng quân, bộ chỉ huy và các căn cứ tiếp vận của cộng sản quanh Sài gòn. Cuộc hành
quân Cedar Falls tháng 1/1967 đánh
vào khu “Tam Giác Sắt” gần Sàigòn. Từ tháng 2 đến tháng 5 Hoa Kỳ thực hiện cuộc hành quân Junction City đánh vào Chiến khu C, gần biên giới Cambốt. Cả hai cuộc hành quân đều đạt mục tiêu. Áp lực vào Sài gòn được giải tỏa; quân đội cộng sản tại Chiến khu C phải trốn qua biên giới Cambốt. Mặc dù sau khi quân đội Hoa
Kỳ rút ra khỏi các vùng tảo thanh, quân đội cộng sản trở lại các vùng đó, nhưng tinh
thần bộ đội và cán bộ của cộng sản xuống rất thấp.
Lãnh đạo cộng sản tại Hà Nội tự hỏi rằng tiếp tục cuộc chiến như hiện trạng có thể đẩy quân đội Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam, và lật đổ chính quyền tại Sài gòn không.
Ý kiến trong Bộ chính trị của đảng cộng sản Việt Nam khác nhau.
Lê Duẫn và Nguyễn Chí Thanh nghĩ rằng tiếp tục hiện trạng sẽ làm cho Hà Nội kiệt sức trước. Duẫn và Thanh cho rằng cần phải làm một hành động ngoạn mục, gây nhiều tổn thất và tạo xúc động làm cho dân chúng Hoa
Kỳ hỏang hốt và giúp thổi bùng lên phong trào chống chiến tranh đang âm ỉ tại Hoa Kỳ. Võ Nguyên Giáp trái lại, vốn có lối suy tư cổ điển theo sách vở cho rằng tình hình chưa chín để phát động một cuộc nổi dậy. Theo Gíáp, cần tiếp tục cuộc chiến tranh hao mòn “nông thôn
bao vây thành thị” một thời gian nữa mới tới điểm “nổi dậy” được.
Bất đồng ý kiến này đã được giải quyết trong Hội nghị Trung ương đảng thứ 13 tại Hà Nội, qua đó đảng cộng sản quyết nghị tung một cuộc tổng tấn công đồng loạt vào các đô thị miền Nam trong dịp Tết Mậu Thân năm 1968.
Có lẽ Nguyễn Chí Thanh sẽ là người tổ chức cuộc nổi dậy nếu ông ta không chết bất ngờ vào tháng 7/1967. Thanh
chết, không còn ai ngoài Giáp có khả năng tổ chức và lãnh đạo cuộc tổng tấn công. Giáp thi hành lệnh đảng dù ông không đồng ý. Sau này mặc dù cuộc tổng tấn công đạt mục đích chính trị buộc Hoa Kỳ xuống thang, ngưng gởi thêm quân đội và đề nghị hòa đàm đi đến chấm dứt chiến tranh, nhưng sự tổn thất nhân mạng quá lớn làm ông mất uy tín “là một viên tướng giỏi” trong nội bộ, và ngôi sao của Giáp mờ dần từ đó.
Cuộc tổng tấn công của Giáp khởi đầu đêm giao thừa (đêm 29/1/1968 rạng ngày 30/1) vào các thành phố Nha
Trang, Hội An, Quy Nhơn, Kontum, Pleiku, Ban
Mê Thuột. Đêm sau mồng Một rạng mồng Hai Tết (đêm 30/1 rạng ngày 31/1/1968) Giáp đánh Huế, Sài
gòn, tòa đại sứ Hoa Kỳ và 20 thành phố và thị trấn khác trên toàn quốc.
Bài viết này tôi dành cho trận đánh tại Huế. Trận đánh Huế kéo dài 26 ngày là trận đánh
dài nhất, đẫm máu nhất, với sự trả thù giết hơn 3000 quân nhân, công
chức, cán bộ miền Nam.
**
Thành phố Huế nằm trên hai bờ sông Hương Giang. Năm 1968 Huế có
140.000 dân, khoảng 100.000 sống bên tả ngạn gồm phố chợ Đông Ba, khu Gia Hội và Thành Nội. Phần còn lại sống bên bờ hữu ngạn có hình tam giác giới hạn bởi sông Hương, sông An Cựu (cũng có khi gọi là sông Phú Cam) và quốc lộ 1. Trung tâm gồm Tòa hành chánh, Bưu điện, Bệnh viện trung ương, Đại học và trường Quốc học Huế, cơ quan MACV Mỹ (Military Assistance
Command, Vietnam) và cầu tàu tiếp vận bằng đường thủy từ cửa Thuận An vào nằm gần bến Đập Đá do một đơn vị Hải quân Việt Nam Cộng Hòa trú đóng.
Thành
Nội Huế nằm sát trên bờ bắc sông Hương rộng 7.8 km vuông, cạnh nam
hình vòng cung áp sát bờ sông, 3 cạnh còn lại thẳng dài trung bình 2.800 mét. Thành được bảo vệ bằng một bức tường đất cao 9 mét che chắn trong ngoài bằng một lớp gạch dày, và cao 12 mét. Thành có nhiều cửa ra vào. Các cửa nổi tiếng là cửa Thượng Tự, cửa Nhà Đồ mở ra hướng Nam; cửa Hữu, cửa Chánh Tây mở ra phía Tây; cửa Đông Ba hướng ra phía Đông, cửa Bắc hướng về phía Bắc. Trong khối đất bao bọc thành có nhiều công thự, địa đạo người Nhật xây để bảo vệ Huế sau khi Nhật đảo chánh Pháp năm 1945
trong Thế chiến 2. Khi cộng quân chiếm Huế, họ xây công thự phòng thủ kiên cố với địa đạo, hầm ếch có sẵn và đào thêm trong bức thành đất làm cho việc tảo thanh của Thủy quân Lục chiến Mỹ-Việt và các đơn vị Dù và bộ binh Việt Nam Cộng Hòa trở nên rất khó khăn và nhiều tổn thất.
Bên trong Thành Nội là Đại Nội nơi thiết triều của các vua triều Nguyễn trước khi người Pháp chiếm năm 1883. Đại Nội hình vuông nằm cân đối trong Thành Nội, nhưng kề mặt nam hơn, mỗi bề 700 mét, bao quanh bằng một bức tường thành bằng gạch dày cao 6 mét. Ba cấu trúc đáng để ý của Huế là Cột cờ cao 37 mét trong Thành Nội nằm ngay trước Đại Nội. Thứ hai là cầu Trường Tiền có 6 vài bắc qua sông Hương nối liền hai khu nam bắc của thành phố. Thứ ba là đồn Mang Cá nằm góc đông-bắc Thành Nội, nơi đặt Bộ Tư lệnh Sư Đoàn 1 Bộ binh. Các Trung đoàn của Sư Đoàn 1 đều được bố trí dọc theo quốc lộ 1 từ An Hòa ra vùng hỏa tuyến. Bảo vệ Bộ Tư lệnh và thành phố Huế là một đại đội Hắc Báo trinh sát do Đại úy Trần Kim Huê chỉ huy. An ninh trong
thành phố do cảnh sát phụ trách.
Về phiá Hoa Kỳ, chỉ có cơ quan MACV tọa lạc sau khu Tòa Khâm Sứ cũ gồm 200 nhân viên, quân
nhân lẫn dân sự và vài sĩ quan Úc cố vấn của Sư đoàn 1. Đơn vị quân sự Hoa Kỳ gần nhất đóng ở sân bay Phú Bài phía nam Huế 11 km trên quốc lộ 1 đi Đà Nẵng. Tại đây có Bộ Chỉ Huy Lực lượng Đặc Nhiệm X-Ray do Chuẩn Tướng Foster LaHue chỉ huy. X-Ray là một bộ phận của Sư Đoàn 1 Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đóng ở Đà Nẵng.
Chuẩn bị đánh Huế tướng Võ Nguyên Giáp huy động 8000 quân gồm 2 Trung đoàn chính
quy Bắc Việt và 6 tiểu đoàn cộng sản địa phương. Trong đó 5000 quân dùng để tấn công, 3000 quân còn lại dùng để bảo vệ đường tiếp vận vũ khí và người của cộng quân và đồng thời chận đường tiếp vận của Mỹ-Việt. Lực lượng tấn công gồm hai Đoàn. Đoàn 5 do
Trung Tá Nguyễn Vạn chỉ huy chia làm hai mũi đánh từ phía nam vào khu hành
chánh và MACV. Đoàn 6 do Trung Tá Nguyễn Trọng Dần chỉ huy cũng chia làm hai mũi đánh vào Thành Nội, chiếm cột cờ để kéo cờ và đồn Mang Cá. Đoàn 6 tập họp và xuất quân từ quận Hương Trà, trong khi Đòan
5 từ thung lũng A Sao trong rặng Trường Sơn vượt sông Hương tại bến đò Đình Môn tiến vào phía nam Huế qua ngõ cầu Lim.
Mấy tháng trước khi tấn công quân đội cộng sản đã được huấn luyên kỹ thuật đánh trong thành phố và công an được lệnh chuẩn bị một danh sách quân cán
chính Việt Nam Cộng Hòa trong thành phố sẽ bị giết khi chiếm Huế. Trong thời gian 26 ngày đánh nhau tại Huế, Giáp rút từ Khe Sanh đưa vào chiến trường Huế - Thừa Thiên thêm 3 trung đoàn nâng
tổng số quân của chiến dịch Huế lên đến 20.000 quân.
Trong đêm 28/1/1968 một tiểu đoàn đặc công đã đưa vũ khí lén lút vào
thành phố và mặc thường phục trà trộn vào dân chúng (Theo “Cuộc Tổng Công Kích – Tổng Khởi Nghĩa 1968 - TCK/TKN” trang 228 của Khối Quân sử, Phòng 5/TTM). Do thỏa thuận ngưng bắn Tết, gần một nửa quân lính Việt Nam Cộng Hòa nghỉ phép ăn Tết nên khi cộng sản tấn công lực lượng chống đỡ của Việt Nam Cộng Hòa rất yếu.Tuy nhiên nhờ một yếu tố tinh thần, đồn Mang Cá không bị cộng sản tràn ngập.
Trong đêm Giao thừa, Chuẩn tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Sư đoàn I được tin cộng sản đánh vào một số thành phố duyên hải như Nha Trang và pháo kích Đà Nẵng. Sáng mồng Một ông ra lệnh cắm trại nhân viên cơ hữu, và đêm Mồng 1 Tết ông ngủ lại đồn. Sự hiện diện của tướng Trưởng đã làm cho nhân viên lên tinh thần và chống giữ không cho cộng sản tràn ngập. Cộng quân chỉ chiếm được bệnh viện nằm ngoài đồn chính và sau đó bị đẩy lui. Đại đội Thám báo cũng bám giữ được một nửa sân bay Tây Lộc .
Từ mồng 1 đến mồng 8 (30/1 - 6/2) cộng sản kêu gọi và chờ đợi nhân dân Huế nổi dậy bày tỏ thái độ không chấp nhận chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ. Nhưng điều này đã không xẩy ra. Ngọai trừ cán bộ cộng sản và một thiểu số nằm vùng, nhân dân Huế nằm im trong nhà hoặc chạy trốn khi thấy bóng dáng cộng quân.
Song hành với sự kêu gọi quần chúng, công an tiếp tục chương trình tàn sát. Những người trong danh sách lập sẵn được gọi ra trình diện, cho về vài hôm để thuyết phục những người còn trốn tránh. Sau đó kêu đi
học tập và giết hết trong đêm tối đơn giản bằng một viên đạn vào đầu và vùi thây trong những hố chôn tập thể tại sân trường trung học Gia Hội, Bãi Dâu và chùa Tăng Quang Tự. Kế hoạch đưa ra khỏi Huế để giết không thực hiện được do cuộc phản công và bao vây mặt tây nam thành phố của Sư Đòan Kỵ binh không vận Hoa Kỳ.
Cuộc phản công đợt 1 của quân đội Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ bắt đầu ngày mồng 2 Tết. Trong đợt phản công này Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa chịu nhiều tổn thất vì tưởng rằng cộng quân có nhiều lắm là một hay hai tiểu đoàn. Tướng Ngô Quang Trưởng và tướng Foster LaHue và Bộ Tư Lệnh Việt-Mỹ ở Sài gòn không ngờ lúc này cộng sản có gần 1 sư đoàn trong thành phố Huế.
Tướng Trưởng ra lệnh Tiểu Đoàn 2 Dù cùng với một Chi đoàn thiết giáp đang đóng ở làng Từ Hạ tiến về Thành Nội để giải tỏa áp lực vào bộ Tư Lệnh Sư Đoàn. Bộ chỉ huy Thiết đoàn 7 Kỵ binh đóng ở An Cựu cũng được lệnh tiến vào thành phố. Bộ chỉ huy Thiết đoàn do Trung Tá Phan
Hữu Chí (Thiết đoàn trưởng) chỉ huy cùng với hai sĩ quan thiết giáp khác, trong đó
có Đại úy Trương Quang Thương Chi đòan trưởng mở đường. Ngoài công tác giải tỏa thành phố bộ chỉ huy Thiết đoàn còn có nhiệm vụ giải cứu gia đình tướng Ngô Quang Trưởng đang kẹt bên hữu ngạn.
Đoàn thiết kỵ binh của Trung Tá Chí ra khỏi bộ chỉ huy thiết đoàn nhưng không tiến lên được vì hỏa lực của cộng quân. Về phần tiểu đoàn Dù trên đường tiến về cửa An Hòa phải chật vật chiến đấu với nhiều tổn thất đến 3 giờ chiều ngày mồng 2, mới tiến sát bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1.
Trong khi đó tướng LeHue gởi một đại đội Thủy quân Lục chiến do Đạị úy Gordon Batcheller chỉ huy có trang bị 4 dàn súng đại liên 12.7 ly từ Phú Bài theo quốc lộ 1 lên Huế. Đại úy Batcheller được lệnh tiến qua thành phố liên lạc với tiểu đoàn Việt Nam Cộng Hòa từ phiá Bắc tiến vào. Trên đường tiến quân đại úy Batcheller gặp đơn vị tiếp tế có 4 xe thiết giáp hộ tống của Trung Tá LaMontagne
đang trên đường tiếp tế định kỳ cho sư Đoàn 3 Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ ở vùng giới tuyến. Gần An Cựu hai đơn vị này gặp chi đoàn thiết giáp của Trung Tá Chí. Ba đơn vị - hai Mỹ, một Việt – phối hợp sức mạnh dùng hỏa lực áp đảo băng qua cầu An Cựu tiến về MACV Huế .
Bộ chỉ huy Thiết đoàn của Trung Tá Chí dẫn đầu chọc thủng hỏa lực của cộng quân băng qua cánh đồng trống nối liền chợ An Cựu với Tiểu khu Thừa Thiên (bên cạnh MACV). Khi đến trước Ty Cảnh Sát thiết giáp của Trung Tá Chí bị bắn hạ, Trung Tá Chí tử thương. Hai xạ thủ trên thiết giáp của Đại Úy Thương cũng bị thương. Đại úy Thương cho thiết giáp chạy ra ngỏ nhà hàng Chaffanjon, ra đường Lê Lợi rồi chạy về Tiểu khu an tòan. Trên đường từ An Cựu tiến vào thành phố Đại úy Batcheller bị thương nặng. Được tin, tướng LaHue gởi một tiểu đoàn do Trung tá Gravel chỉ huy từ Phú Bài lên tiếp viện. Đến 3 giờ chiều đơn vị của Gravel và LaMontagne tiến vào được MACV, sau khi đã cho tản thương đại úy Bacheller và các binh sĩ khác về Phú Bài. Đến MACV Trung tá Gravel được lệnh tiến qua Thành Nội. Nhưng với tổn thất nặng n