Những
vấn nạn chung quanh
sự
lập quốc của người Palestines
Trần
Bình Nam
Tại Đại hội đồng
Liên hiệp quốc, hôm Thứ Sáu 23 tháng 9, đầu Thu 2011, Chủ tịch chính quyền
Palestine Mahmoud Abbas chính thức đệ nạp Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc đơn
xin chấp thuận thành hình tân quốc Palestine.
Đơn xin thành lập
quốc gia trên nguyên tắc chỉ là sự thi hành quyền “dân tộc tự quyết” như là một quyền căn bản trong sinh hoạt của cộng
đồng thế giới. Thế nhưng nó đã được chờ đợi như một biến cố tại trụ sở Liên
hiệp quốc ở New York.
18 năm đã trôi
qua kể từ ngày 13/9/1993 khi Tổ chức Giải
Phóng Palestine (PLO) và Do Thái ký bản đồng thuận Oslo (Oslo Agreement hay
Declaration of Principles – DOP) qua đó Do Thái giao hai vùng đất Tây ngạn (sông Jordan) gọi là West Bank và Gaza cho một thực thể chính quyền người Palestine (Palestine Authority - PA), đổi lại PA
công nhận quyền tồn tại của nước Do Thái. Các vấn đề gai góc như: quy chế thành
phố Jerusalem, vấn đề người tị nạn Palestine (do trận chiến tranh 1948) trở về
đâu, vấn đề các khu định cư của Do Thái xây dựng trên đất Palestine sau cuộc
chiến tranh 1967 sẽ được hai bên thương thuyết với nhau trước khi Do Thái công
nhận Palestine là một quốc gia có chủ quyền.
Bản thỏa ước Oslo
mang đến một tia hy vọng cho vấn đề Do Thái – Palestine. Nhưng đồng sàng dị
mộng. Các cuộc thương thuyết giữa hai bên không mang lại một kết quả cụ thể
nào. Hình như người Do Thái xem sự thành hình một thực thể cầm quyền Palestine
là đủ để thế giới thấy thiện chí của Do Thái. Thực tế vừa hạ bút ký bản DOP,
thủ tướng Do Thái Yitzhak Rabin đã tuyên
bố: “thành phố Jerusalem là thủ đô lâu
đời và vĩnh viễn của dân tộc Do Thái. Lập trường của Do Thái là thành phố
Jerusalem (không phân chia) sẽ ở dưới sự quản trị của chính phủ Do Thái trong
đó mọi cư dân đều được hưởng quyền tự do tôn giáo”
Dù cứng rắn như vậy ông Rabin vẫn bị thành phần
quá khích ám sát, và sau đó các chính quyền Do Thái chần chừ không thi hành
thỏa ước Oslo, và dùng thì giờ để lấn đất vùng West Bank bằng cách cho xây một
bức tường ngăn cách dọc theo biên giới West Bank và Do Thái bọc các khu định cư
của người Do Thái đã xây dựng trên đất West Bank thuộc PA.
Cuộc
tranh chấp Do Thái – Palestine chỉ có thể giải quyết nếu Hoa Kỳ có thể cứng rắn
với Do Thái. Nhưng Hoa Kỳ dù dưới chính quyền Cộng Hòa hay Dân Chủ đều không
thể có chính sách cứng rắn với Do Thái. Chính sách ngoại giao này bắt nguồn từ
năm 1956 khi đại tá Nasser quốc hữu hóa kênh đào Suez. Do Thái, sau khi tham
khảo với Anh và Pháp đã đánh chiếm bán đảo Sinai tiến quân vào sát bờ tây kênh
đào đe dọa sự lưu thông của thủy đạo quốc tế quan trọng này. Anh, Pháp lấy cớ
chiếm kênh đào Suez. Tổng thống Eishenhower
lo ngại Liên bang Xô viết bênh Nasser nhảy vào Trung đông nên dùng đòn
bẩy tài chánh áp lực Anh rút quân (và Pháp rút theo) lui trả kênh đào lại cho
Ai Cập. Biến cố này đánh dấu ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại Tây Âu và sự mất dần ảnh
hưởng của đế quốc Anh.
Cuộc khủng hoảng
Cộng
đồng thế giới có cảm tình với người Palestine, nhưng các cuộc biểu quyết của
Đại hội đồng Liên hiệp quốc chỉ có tính
ghi nhận và khuyến cáo, Do Thái không cần tuân thủ. Chỉ có các quyết nghị của
Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc mới có hiệu lực của một đạo luật quốc tế, nhưng
Hội đồng Bảo an không thể thông qua quyết nghị nào có tính ràng buộc Do Thái vì
phiếu phủ quyết của Hoa Kỳ. Các chính phủ Cộng Hòa thường bênh vực Do Thái hơn
các chính phủ Dân Chủ, nhưng không chính phủ Hoa Kỳ dù thuộc đảng nào có thể
coi thường sức mạnh chính trị của người Do Thái để có một chính sách ngọai giao
thuyết phục Do Thái đi đến một giải pháp hai nước Do Thái - Palestine sống hòa
bình bên nhau. Khi ông Obama đắc
cử tổng thống Hoa Kỳ, Palestine hy vọng ông Obama sẽ đề ra một chính sách công
bình hơn đối với người Palestine, nhưng sớm nhận ra rằng đó chỉ là ảo tưởng.
Tổng thống Obama ửng hộ sự hình thành một nước Palestine độc lập, có chủ quyền,
thành viên của Liên hiệp quốc với biên giới Palestine trước cuộc chiến tranh
1967 – và thêm – hai bên sẽ đổi đất với nhau dựa vào thực tế tại chỗ. Nghĩa là
nếu có một vùng đất vốn thuộc Palestine trước năm 1967 Do Thái đã “lỡ” chiếm và
xây đựng vĩnh viễn thì Do Thái có thể thương thuyết với Palestine giữ đất đó và
đổi lại cho Palestine một miếng đất thuộc Do Thái (trước năm 1967). Đề nghị có
vẻ hợp lý, nhưng Do Thái không dễ đổi đất vì đặt an ninh lên trên mọi nhu cầu
khác. Do Thái lý luận trước thế giới rằng một holocaust với 6 triệu người Do Thái bị giết đã quá đủ, họ cương
quyết không để một việc như vậy tái diễn.
Lập
trường của Do Thái là cứ thương thuyết với PA, đồng thời vẫn tiếp tục gặm nhắm
dần đất của Palestine qua việc xây dựng các khu định cư mới trong vùng West
Bank và xây thêm nhà cửa chung quanh thành phố Jerusalem. Một nhà báo Tây
phương miêu tả cuộc thương thuyết về ranh giới đất giữa Do Thái và Palestine
giống như hai anh em chia một chiếc bánh. Ông anh ỷ mạnh vừa ăn dần rìa chiếc
bánh vừa nói với em “đừng lo, để anh chia
công bình cho em”. Ông em Palestine không thể chấp nhận một sự chia chác
như vậy.
Tiến
triển của nỗ lực lập quốc của Palestine nhì nhằng như vậy 18 năm qua trước sự
đãi bôi vì quyền lợi của các nước lớn, nhất là 5 ủy viên thường trực của Hội
đồng Bảo an Liên hiệp quốc.
Dưới sự lãnh đạo của ông Yasser Arafat
năm 1987 người Palestine lần đầu tiên nổi dậy (gọi là first intifada) trước âm mưu lấn đất lộ liễu của Do Thái. Cuộc nổi
đậy bất bạo động này được phối hợp đồng loạt tại 3 phần đất riêng biệt là West
Bank, Gaza và Đông Jerusalem gồm chống thuế, đình công, đặt chướng ngại trên
các trục giao thông. Hình ảnh của cuộc nổi dậy được thế giới chứng kiến là hình
ảnh thanh thiếu niên Palestine dùng tay không, ná cao su, gạch đá chống lại lực lượng an ninh trang bị bằng
súng đạn của Do Thái. Cuộc nổi dậy này chấm dứt năm 1993 với thỏa ước Oslo sau
khi đã làm thiệt mạng 2,100 người Palestine, trong đó có 1000 người bị giết vì
nghi là hợp tác với Do Thái, và 164 người Do Thái.
Cuộc nổi dậy thứ hai (second intifada) bùng nổ vào mùa Thu năm
2000 sau khi thủ tướng Ariel Sharon đi thăm khu Al-Haram Al-Sharif (gọi là
Temple Mount ) do Do Thái kiểm soát tại Jerusalem. Người Palestine và người Do
Thái đều xem Temple Mount là thánh
địa của mình. Cuộc nổi dậy thứ hai bao gồm các hình thức phản kháng bạo động và
bất bạo động, và chấm dứt sau khi chủ tịch Yasser Arafat qua đời năm 2004. Ông
Mahmoud Abbas thay thế Arafat chủ trương chấm dứt bạo động và tìm giải pháp lập
quốc qua thương thuyết khởi đầu bằng quyết định của thủ tướng Sharon rút quân và
triệt hạ các khu định cư Do Thái trong vùng Gaza. Tổn thất nhân mạng trong cuộc
nổi dậy thứ hai ước lượng 4.745 người Palestine và 1.053 người Do Thái.
Tư năm 2004 đến nay tình hình thương
thuyết không có gì thay đổi. Tổng thống Obama có mang đến một chút hy vọng qua
các phát họa mới nhưng vẫn không đi tới đâu trước thực tế chính trị tại Hoa Kỳ
với sự kiểm soát truyền thông và khả năng vận động tại quốc hội (lobby) của
người Mỹ gốc Do Thái .
Phát họa chính sách mới đối với vụ
tranh chấp Do Thái – Palestine trong bài diễn văn đọc tại Cairo ngày 4/6/2009
tổng thống Obama nói: “… vấn đề Do Thái –
Palestine chỉ có thể giải quyết qua công thức hai quốc gia công nhận nhau và
cùng tồn tại bên cạnh nhau.” (The
only resolution is for the aspirations of both sides to be met through two
states, where Israelis and Palestinians each live in peace and security). Nhưng ông không làm gì để
áp lực Do Thái ngưng các phát triển thêm các khu định cư trong vùng West Bank
ngoài sự hứa hẹn “ … sẽ đích thân, kiên nhẫn và khéo léo để thực hiện …” (I intend to personally pursue this
outcome with all the patience and dedication that the task requires).
Nhưng
bản đồ chính trị Trung Đông thay đổi từ đầu năm 2011 sau các cuộc nổi dậy lật
đổ các chế độ độc tài tại Tunisia, Ai Cập, Lybia và đang làm lung lay các chính
quyền độc tài khác tại Syria, Yemen và một số tiểu quốc A Rập khác.
Sự ổn định (tiền 2011) tại Trung Đông qua
trục Ai Cập, Do Thái và Thổ Nhĩ Kỳ dưới sự cầm chịch của Hoa Kỳ không còn nữa.
Sau khi Hosni Mubarak từ chức quan hệ giữa Ai Cập và Do Thái trở nên nguôi
lạnh, và sau khi Do Thái truy kích quân du kích Palestine qua biên giới làm
thiệt mạng một số quân nhân Ai Cập thì sự xích mích giữa hai nước bộc phát bằng
những cuộc biểu tình phản đối Do Thái trên đường phố Cairo. Ngày 10/9/2011 dân
chúng bao vây đập phá tòa đại sứ Do Thái tại Cairo, chính quyền Ai Cập phải vất
vã lắm mới cứu được 80 công chức Do Thái và thân nhân đưa ra khỏi Ai Cập. Trong
khi đó quan hệ giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Do Thái vốn đã căng thẳng từ tháng 5/2010 khi
Hải quân Do Thái tấn công tàu dân sự Thổ tiếp tế nhân đạo cho dân chúng Gaza
giết chết 9 công dân Thổ trở nên căng thẳng hơn khi thủ tướng tướng Thổ Erdogan
(Recep Tayyip) công khai khuyến khích và hỗ trợ quyết định của chủ tịch PA Mahmoud
Abbas sẽ đưa đơn xin gia nhập Liên hiệp quốc vào dịp Đại hội đồng tháng 9 năm
2011.
Sáng kiến đưa đơn xin gia nhập Liên hiệp
quốc của PA có từ năm 1999 lúc ông Arafat còn sống. Năm 1999 ông Yasser Arafat
dự định đích thân dự đại hội đồng Liên hiệp quốc và nộp đơn gia nhập Liên hiệp
quốc, nhưng Do Thái giam lỏng ông tại thủ đô Ramallah buộc ông bỏ ý định này.
Sau khi ông Arafat qua đời tân chủ tịch Mahmoud Abbas tạm bỏ qua việc xin chính
thức gia nhập Liên hiệp quốc trước áp lực của Do Thái và Hoa Kỳ chờ cơ hội.
Nay thời cơ đã tới. Trục Do Thái -Ai Câp
–Thổ nhĩ Kỳ bể. Do Thái bị cô lập. Hoa
Kỳ vẫn còn có thể phủ quyết, nhưng sẽ phải trả một giá rất đắc trước dư luận
bất lợi trong thế giới A Rập .
Tại sao Do Thái và Hoa Kỳ lo ngại việc
Palestine trở thành thành viên của Liên hiệp quốc qua quyết nghị của Hội đồng
Bảo an Liên hiệp quốc chứ không qua thương thuyết tay đôi với Do Thái? Nếu
Palestine trở thành quốc gia thành viên Liên hiệp quốc điều này chứng tỏ nỗ lực
lập quốc của người Palestine được sự yểm
trợ của cộng đồng thế giới, và nước Palestine có quyền đưa các vụ lấn đất
của Do Thái ra trước tòa án quốc tế.
Ngoài ra Do Thái và Hoa Kỳ còn lo ngại một cuộc nổi dậy thứ ba (third intifada) bùng nỗ đưa đến chiến
tranh và bất ổn khi Hội đồng Bảo an không thông qua đòi hỏi của người
Palestine.
Hai ngày trước khi chủ tịch Mahmoud Abbas
đích thân đệ nạp đơn gia nhập, tổng thống Obama đọc diễn văn trước Đại hội Liên
hiệp quốc nói rằng Hoa Kỳ sẽ bỏ phiếu phủ quyết. Và thành phần thân Do Thái tại quốc hội Hoa
Kỳ cho biết sẽ vận động quốc hội cắt viện trợ cho chính quyền Palestine.
Chủ tịch Abbas biết rõ các sự de dọa này,
nhưng ông không lùi bước. Thổ Nhỉ Kỳ hứa sẽ viện trợ thay Hoa Kỳ, và Saudi
Arabia cho biết phiếu phủ quyết của Hoa Kỳ sẽ làm thay đổi “tình nghĩa” giữa
Hoa Kỳ và khối A Rập tổng thống Obama đang vun xới .
Ông Mahmoud Abbas đã đi một nước cờ cao.
Hoa Kỳ phủ quyết, đơn ông sẽ được đưa ra trước khóang đại Liên hiệp quốc và dễ
dàng tranh thủ 2/3 quốc gia ủng hộ, trong đó có thể có cả phiếu cộng đồng Âu
châu, Anh và Đức chấp nhận quy chế “quan sát viên” như quy chế hiện nay của
Vatican.
Biểu
quyết bác bỏ thỉnh nguyện của người Palestine sẽ đặt Do Thái và Hoa Kỳ bên lề
trái của lương tâm thế giới và sẽ là yếu tố tích cực đưa Palestine đến vị trí
một quốc gia có chủ quyền sống hòa bình trong cộng đồng thế giới trong một
tương lai không xa.
Triển
vọng chấm dứt cuộc tranh chấp Do Thái – Palestine không lúc nào sáng sủa bằng
lúc này. “ Cùng tất biến, biến tất thông”.
Trần Bình Nam
Oct. 1, 2011