Bài học của Ông Ngoại
(The Little Boat That sailed Through Time)
by Arnold Berwick
Reader’s Digest - June 2014
Trần
Bình Nam phóng dịch
Nghĩ đến thời thơ ấu, tôi nhớ nhất những
mùa hè theo Mẹ sang thăm ông ngoại ở một trang trại miền núi phía Tây nước Na
Uy, sinh quán Mẹ tôi. Nhớ nhất là thời gian tôi chơi với ông Ngoại –
Jorgen. Ngoại tôi người chắc nịch, cao
to, đôi vai rộng, hàm râu dày, và điều làm tôi ngạc nhiên là Ngoại làm việc từ
sáng tới chiều không biết mệt.
Tôi thấy Ngoại dùng một lưỡi liềm cán
dài phát cỏ, cào thành đống, xúc rải mỏng trên hàng rào. Cỏ khô, Ngoại bó lại
thành từng bó, chất một lần nhiều bó lên vai mang vào kho chứa cỏ khô.
Thỉnh thoảng Ngoại mài lưỡi liềm trên
một tảng đá nhám lớn. Ngoại làm heo cắt thành từng miếng lớn sấy khô, bắt cá ướp
muối để dành. Ngoại xay lúa mạch bằng một máy xay chạy bằng trọng lực nước. Ngoại
đào khoai lấy củ cất đi rồi trồng thêm nhiều luống khoai khác …
Ngoại nói ông phải dự trữ đủ lương thực
cho gia đình và súc vật qua mùa đông dài. Ông chỉ nghỉ vừa đủ để ăn và ngủ đôi
chút. Mùa hè nơi đây không có đêm.
Thế nhưng Ngoại vẫn dành thì giờ để
chơi với tôi. Một hôm Ngoại xuống phố mua đồ cần dùng, trở về Ngoại cho tôi một
con dao thật bén còn nằm trong vỏ. Ông nói, cháu xem này. Rồi ông rút cây dao của
ông ra khỏi vỏ cắt một nhành hóp, cắt tỉa, khoét, chỉ một chốc ông có một ống
sáo nhỏ. Ông thổi một điệu nhạc quen thuộc nghe rất vui tai. Đã 63 năm qua, mỗi
lần tôi nghe tiếng sáo tôi nhớ đến chiếc sáo của ông tôi làm từ một vật chẳng
có giá trị gì. Thì ra sống xa đô thị, người ta phải làm ra những gì mình cần.
Sống ở Mỹ tôi nghĩ cần gì thì chỉ cần
đi mua. Không biết Ngoại có biết điều đó không. Tôi không biết, nhưng tôi biết
Ngoại muốn dạy tôi một điều gì. Một hôm Ngoại bảo đi theo ông. Tôi theo Ngoại
xuống nhà kho. Ông kéo tôi đến một chiếc bàn gỗ cạnh cửa sổ. Ngoại nói, cháu cần
một đồ chơi riêng cho cháu, một chiếc thuyền để cháu thả chạy trên hồ
Storvassdal. Hồ Storvassdal là một chiếc hồ nhỏ cách nhà mươi cây số. Tôi nhìn
quanh chẳng thấy thuyền bè đâu cả. Ngoại cười. Ông lấy một khúc gỗ dài chừng 45
cm nằm trên sàn nhà đưa cho tôi với một chiếc búa đẽo thật bén và nói: “Chiếc
thuyền của cháu nằm trong đó, chỉ cần lấy nó ra.” Tôi chưa biết làm sao thì Ngoại
chỉ cho tôi cách đẽo khúc gỗ thành hình một chiếc thuyền. Sau đó Ngoại chỉ cho
tôi cách dùng búa và đục đục khúc gỗ thành cái lòng thuyền.
Khi tôi hì hục làm Ngoại đi làm việc
khác, ông sửa cái cào gỗ sút cán, mài mấy cây dao, thỉnh thoảng Ngoại liếc nhìn
tôi làm, cho ý kiến khi cần nhưng không đụng tay vào. Rõ ràng ý Ngoại là để tôi
tự tay làm cái thuyền gỗ một mình. Ngoại nói: “Cháu sẽ có một chiếc thuyền nhỏ
xinh xinh do chính tay cháu làm. Cái gì cháu làm là của cháu không ai cho cháu
cả.” Câu nói của Ngoại cứ vằng vẳng bên tai khi tôi đang đục đẽo.
Sau
cùng xong cái thân thuyền, tôi làm cột và buồm. Một chiếc thuyền nhỏ, trông chẳng
có vẻ nghệ thuật gì, nhưng tôi cảm thấy tự hào do chính tay mình làm ra.
Hôm sau tôi mang thuyền ra hồ
Storvassdal. Từ trang trại tôi leo lên một đồi thấp đi vào rừng theo một lối nhỏ,
vượt qua mấy cái suối, cẩn thận tránh rêu rong bên bờ suối, leo thêm mấy bậc đá
cao cho đến khi trước mắt là một khoảng không gian không cây cối. Đi thêm 5 hay
6 cây số nữa tôi đến bờ hồ. Hồ Scarvassdal nằm giữa một con sông tuyết
(glacier). Từ chỗ tôi đứng xuống đến mặt nước hồ tôi phải leo theo nhiều bậc đá
nhiều hình thù to nhỏ khác nhau.
Tôi thả chiếc thuyền xuống nước, nhìn
cơn gió nhẹ thổi chiếc buồm tôi mơ sao cho gió thổi nó qua bờ bên kia. Không
khí trong và nhẹ như tơ, không một tiếng động quanh mình, chỉ có tiếng hót của
một con chim nhỏ đâu đó.
Tôi ra hồ thả thuyền nhiều lần trước
khi trở về Hoa Kỳ. Hôm làm hành lý Mẹ tôi bảo, hành lý quá nhiều con không mang
chiếc thuyền theo được. Tôi nài nỉ mấy Mẹ cũng không cho.
Phụng phịu với Mẹ nhưng tôi đành mang
chiếc thuyền ra hồ định thả cho đi luôn một lần chót. Bỗng tôi đổi ý. Tôi tìm một
tảng đá lớn có một hang nhỏ vừa đủ dấu chiếc thuyền. Tôi lấy đá nhỏ bịt cửa
hang, và quyết khi nào trở lại tôi sẽ lấy thuyền ra chơi.
Trước khi ra sân bay, cầm chặt bàn tay
Ngoại tôi nói: “Tạm biệt Ngoại!” không ngờ đó là lần cuối tôi thấy Ngoại.
Mùa hè năm 1964 tôi và bố mẹ và các
con tôi trở lại thăm Na Uy. Một hôm tôi thơ thẩn một mình ra hồ tìm chiếc thuyền
năm xưa. Bờ hồ đổi dạng, thêm nhiều tảng đá lớn, tìm mãi không thấy tảng đá cũ.
Tôi định bỏ cuộc trở về, thì kìa, xa
xa tảng đá quen thuộc của tôi, cửa hang chất đầy đá cuội. Tôi kiên nhẫn dọn lớp
đá cuội khỏi miệng hang, lùa tay vào, đụng chiếc thuyền tôi kéo nó ra.
Đặt nó trên đôi tay tôi ngắm nghía chiếc
thuyền nhỏ của tôi. Đã 34 năm! Nó vẫn kiên nhẫn nằm đó đợi tôi trở lại. Thân
thuyền, cột buồm vẫn vậy hình như không bị ảnh hưởng bởi thời gian, chỉ có chiếc
buồm đã mục nát.
Tôi không quên được giây phút đó. Ngoại
như có mặt đâu đây dù ông qua đời đã 22 năm. Ngoại, tôi và chiếc thuyền, ba
chúng tôi đang đoàn tụ với nhau.
Tôi mang chiếc thuyền về trang trại và
khắc hai bên mạn thuyền hai năm kỷ niệm: 1930, 1964. Trong nhà ai cũng khuyên
tôi mang chiếc thuyền về Mỹ. Nhưng “Không,” Tôi nói: “Nhà của nó là cái hốc đá bên bờ hồ
Scorvassdal.”
Tôi trở lại thăm quê ngoại nhiều lần nữa:
1968, 1971, 1977, 1988 . Mỗi lần tôi khắc thêm một năm nơi mạn thuyền và mỗi lần lại nhớ Ngoại da diết.
Tôi trở lại Storvassdal lần cuối năm
1991. Lần này tôi mang theo hai đứa cháu nội, Catherine 13 tuổi và Claire 12 tuổi
. Hôm dắt hai đứa cháu leo núi ra hồ tôi nghĩ đến ông tôi, so sánh với hai cháu
và sung sướng cảm thấy ông tôi và hai đứa cháu hình như được đúc từ một chất liệu.
Cả ông và cháu đều có tính cương quyết và độc lập. Chỉ khác một điều ông làm việc
nhiều nhưng không tỏ vẻ bận rộn, trong khi các cháu tôi suốt ngày bận rộn như
không có thì giờ để sống.
Làm việc và phấn đấu để đạt mục tiêu
chúng ta muốn là điều đẹp nhất trong cuộc đời. Nhưng phải chăng đối với các
cháu tôi cái gì cũng có sẵn chúng mất đi một phần lớn cái thú vị của cuộc đời.
Những mùa hè sống cạnh Ngoại tôi học
được bài học chấp nhận những gì mình có dù nhiều hay ít, và trong đời sống
không phải cái gì chúng ta cũng kiểm soát được. Gặp nghịch cảnh tinh thần hay vật
chất chúng ta phải biết chịu đựng và tìm cách giải quyết một cách tốt đẹp nhất,
lương thiện nhất.
Sống ở thành phố đầy đủ tiện nghi vật
chất mấy đứa cháu tôi ít khi đụng chạm với khó khăn. Nhưng tôi tin rằng rơi vào
nghịch cảnh các cháu tôi sẽ biết cách giải quyết như Ngoại đã làm.
Hôm mang Catherine và Claire ra hồ
Storvassdal tôi hy vọng qua câu chuyện chiếc thuyền nhỏ chúng nó hiểu được giá
trị của sự tự túc .
Bên bờ hồ tôi không muốn nói nhiều sợ
làm mất cái không khí tĩnh lặng của miền cực Bắc. Tôi đang mơ màng bỗng Claire
nói giọng thật nhẹ như thoảng vào tai tôi: “Ông nội! Một ngày kia cháu sẽ trở lại
đây.” Claire tiếp: “Cháu sẽ mang theo các con của cháu nữa!” ./.
Trần
Bình Nam phóng
dịch
May 11, 2014
www.tranbinhnam.com
Ghi chú : Reader’s
Digest đăng
bài này của tác giả Arnold Berwick lần đầu tiên tháng Năm năm 1993. Arnold
Bewick sinh năm 1920. Ông đi Na Uy thăm ông Ngoại – Jorgen - lần đầu tiên năm
10 tuổi. Ông mất năm 2013 thọ 93 tuổi.