Câu chuyện chiếc nhẫn
của một người tù
By Kenneth Miller – Reader’s Digest. Dec – 2014
** Trần Bình Nam ** phóng thuật
Cuộc
đổi chác diễn ra qua hàng rào dây kẽm gai tại trại tù Stalag VII-A của Đức Quốc
xã trong Thế chiến 2. Bên kia là trại
giam tù người Ý, bên này là trại tù binh đồng minh. Một người lính Ý có hai thỏi
kẹo chocolat và gạ đổi chiếc nhẫn bằng
vàng của Thiếu úy David C. Cox. Đói, Thiếu
úy Cox thèm đường. Cơm tù chỉ gồm canh lểnh loãng đầy sâu và bánh mì đen lẫn
cát .
Thiếu
úy Cox nhìn hai thỏi chocolat thèm chảy nước miếng. Nhưng nhìn xuống chiếc nhẫn
anh tiếc. Anh nhớ lại ngày anh có bằng phi công, ngày cưới vợ - cô Hilda tóc
vàng xinh đẹp - và ngày lên đường theo đơn vị đi Âu châu bố mẹ cho anh chiếc nhẫn.
Cox là con một chủ trại cưa gỗ làm ăn
phát đạt tại Greensboro, bang North Carolina. Vào đại học chưa xong một học kỳ
anh bỏ học nhập ngũ, đăng vào ngành Không quân của Bộ binh để học bay. Chiến
tranh bùng nổ, Thiếu Úy Cox được điều qua Âu châu lái máy bay phóng pháo B-17
oanh tạc lục địa Đức và vùng Pháp bị Đức chiếm. Tháng Ba năm 1943 máy bay anh bị
bắn cháy, anh liều chết lái máy bay đáp xuống đất Anh. Năm trong 10 phi hành
đoàn tử thương. Thiếu úy Cox được ban thưởng Huy chương Bay Danh dự (Distinguished
Flying Cross) một huy chương cao quý nhất trong ngành bay của quân đội Hoa
Kỳ. Tháng 7 năm đó phi cơ anh bị bắn hạ trong vùng Đông Nam nước Đức. Thiếu úy
Cox bị bắt khi dù vừa chạm đất. Anh bị giam tại trại Stalag Luft II, một trại
tù dành cho sĩ quan Không quân đồng minh. Tại đây phòng trại tươm tất và ăn uống
đầy đủ. Tù nhân có đủ thì giờ chơi thể thao, ca hát và hoạt động văn nghệ. Một
số sĩ quan lợi dụng sự dễ dãi của trại bí mật đào hầm trốn trại. Vụ trốn trại
năm 1944, có 76 tù nhân tham dự. Giám đốc trại ra lệnh biệt giam tất cả tù còn
lại. Một Đại Tá Mỹ phản đối (cho là trái với quy ước Geneva về tù binh) bị viên
sĩ quan giám trại bắn chết tại chỗ. Trong số 76 người đi trốn, chỉ thoát 3 người.
73 sĩ quan bị bắt lại. Đích thân Hitler ra lệnh xử bắn 50 sĩ quan chủ chốt bằng
súng liên thanh .
Qua
năm 1945 tình hình chiến tranh diễn biến thuận lợi. Phòng tuyến Âu châu xích dần
về phía Đông mang đến một không khí lạc quan trong trại .
Thình
lình khuya ngày 27 tháng Giêng năm 1945, giữa mùa Đông đầy tuyết và lạnh giá
trưởng toán thông báo các tù binh phải sẵn sàng hành trang để chuyển trại trong
vòng nửa giờ. Toán sĩ quan Không quân và hơn 10.000 tù binh khác bị buộc đi bộ
suốt đêm hôm đó và 2 ngày kế tiếp. Ai không đi nổi bị bắn hoặc bỏ chết trên
băng tuyết. Sau đó đoàn tù được xe chở như súc vật trong 2 ngày đêm nửa đến trại
Stalag VII-A cạnh thành phố Moonsburg trong tỉnh Bavarian. Trại có khả năng
giam 10.000 tù nhân, thì hiện có 80.000 sống chen chúc trong các khu nhà tiền
chế và lều vải dơ bẩn.
Sau
2 tháng ở trại VII-A, Thiếu úy Cox - dù mới 26 tuổi - mất sức dần và nếu không
có gì bổ dưỡng chắc anh sẽ bỏ mình trong trại giam.
Nhìn
hai thỏi kẹo chocolat bên kia hàng
rào dây kẽm gai anh biết đó là vật cứu sống mình. Vừa tháo chiếc nhẫn ra khỏi
ngón tay anh nghĩ đến Hilda và tất cả tình thương bố mẹ gởi gắm nơi chiếc nhẫn
khi tiễn anh đi rồi chìa chiếc nhẫn qua cho người tù binh Ý.
**
Con
trai đầu của Cox, David C. Cox Jr., làm
nghề bán dụng cụ y khoa năm nay 68 tuổi thuật lại: “Chiến tranh chấm dứt, ở tù
về Ba tôi thuê làm một chiếc nhẫn khác giống như chiếc nhẫn gốc để đeo, và mỗi
khi kể chuyện tù cho con cái nghe ông không quên nhắc đến chuyện chiếc nhẫn đổi
kẹo chocolat , đồng thời mân mê tháo
nhẫn ra ướm lỏng lẻo vào ngón tay của chúng tôi và cười một cách thoải mái. Ông
nói, chưa bao giờ ông thấy kẹo chocolat
ngon như hôm đó. Để cho kẹo tan trên lưỡi, nuốt dần vào cuống họng, chất ngọt
đi đến đâu mình biết đến đó thật là kỳ diệu.”
Tháng
Tư năm 1945, Sư đoàn 14 thiết giáp của tướng George Patton chiếm trại tù VII-A. Thiếu úy Cox trở về
North Carolina đoàn tụ với Hilda và 10 tháng sau Cox Jr. ra đời. Sau Cox Jr. có
thêm em trai, Brad và một em gái, Joy.
Sau
khi giải ngũ Thiếu Úy Cox cùng với một người anh mở dịch vụ đắp bánh xe cũ và
trở nên giàu có. Cox Sr. mua nhà tậu xe, sống thoải mái, nhà không khi nào vắng
bóng bạn bè, party, yến tiệc .
Bề
ngoài Cox Sr. có vẻ thoải mái, nhưng không ai biết ông mang tâm bệnh do những
phi vụ bỏ bom và những năm tháng tù đày căng thẳng, một chứng bệnh bây giờ gọi
là bệnh “Loạn tâm thần do áp lực tinh thần”
(Post-traumatic Stress Disorder- PTSD,) hồi đó y khoa chưa xác định bệnh trạng
.
Mấy
người con không biết cha bị bệnh chỉ biết ông càng ngày càng khó tính không chịu
được. Buổi sáng nhại lính Đức canh tù ông rang rảng đánh thức các con dậy bằng
cách hét vào tai chúng Raus, Raus (tiếng Đức Raus là dậy, dậy). Trong buổi cơm chiều nếu con
hay vợ quên dùng ruột bánh mì vét dĩa cho sạch là ông đem chuyện đói trong tù
ra giảng luân lý cho cả nhà nghe giờ này qua giờ khác. Sau giờ làm việc ông ngồi
nơi phòng khách, trầm ngâm uống rượu, điếu thuốc không rời khỏi môi. Bà Hilda dặn
các con đừng sinh chuyện gì trong những lúc đó. Một lỗi nhỏ là cớ để ông la mắng
suốt buổi. Sau khi bác sĩ phát hiện bà Hilda bị bệnh khó thở (emphysema), ông
Cox vẫn hút thuốc nhả khói đầy nhà làm cho quan hệ vợ chồng giữa ông bà trở nên
lạnh nhạt dần. Ông nói: “Bà ấy bệnh chứ tôi có bệnh đâu mà bảo tôi phải bỏ thuốc
lá.” Ở sở ông Cox sinh sự với nhân viên đến độ anh ông phải chia phần hùn và bảo
ông nghỉ việc. Ông Cox đầu tư vào kinh doanh khác, nhưng thất bại và gia đình
trở nên túng bấn.
Đầu
thập niên 1960, khi Cox Jr. vào tuổi 16, 17, bệnh tình ông Cox trở nên nặng.
Ông uống rượu nhiều hơn, nếu không la mắng vợ con thì ông ngồi yên miệng lẩm bẩm
về những phi vụ bỏ bom xuống những người dân vô tội.
Năm
1984 bà Hilda qua đời, Ông Cox đưa chiếc nhẫn giả cho Cox Jr đeo. Mỗi khi nhìn
chiếc nhẫn lỏng lẻo nơi ngón tay, David Jr. vừa tự hào vừa buồn vì cha. Năm
1993 bác sĩ xác định ông Cox bị “bệnh lú lẫn” (dementia) và David đưa cha vào một
khu giúp nuôi người bệnh (assisted-living facility) tại thành phố Raleigh. Năm
sau ông Cox 75 tuổi bị đột quỵ qua đời.
**
Mười chín năm sau Mark Turner và vợ Mindy ở Kansas dọn gia đình qua định cư
ở Hohenburg, một khu phố nhỏ ở thành phố Ansbach, Đức quốc. Mark Turner, 45 tuổi
vừa được nhận làm kiểm soát viên không lưu tại căn cứ Không quân Hoa Kỳ ở
Ansbach. Cạnh nhà là hai vợ chồng người Nam Tư, quốc tịch Đức. Martin Kiss là họa
sĩ chuyên vẽ hình nhà thờ và có một khu triễn lãm tác phẩm trong nhà. Ông Kiss
tuổi quá lục tuần, tính tình cởi mở, đẹp lão và cặp vợ chồng Martin, Regina rất
hiếu khách.
Một
buổi tối tháng Bảy năm 2013, vợ chồng ông Kiss mời vợ chồng ông bà Turner dùng
cơm tối và xem phòng triễn lãm tranh. Sau bữa cơm trang nhã ngon miệng, ông
Kiss hướng dẫn khách xem tranh. Tranh gồm nhiều hình Chúa hy sinh trên cây
thánh giá làm bằng gỗ và thạch cao, hình lịch sử truyền giáo tại Âu châu qua
các thời kỳ hưng phế, và tranh họa các nhân vật tôn giáo.
Trước
khi tiễn khách ra về, ông Kiss vào phòng mang ra một hộp plastic nhỏ và nói với
ông bà Turner : “Tôi có vật này muốn ông bà xem cho biết.” Ông Kiss mở hộp lấy ra một chiếc nhẫn bằng
vàng, trên có chạm hình một chiếc máy bay cánh quạt, một con ó và mấy chữ
Anh. Ông Kiss kể chuyện rằng, ông sinh
ra và lớn lên tại Nam Tư dưới chế độ cộng sản. Ông bà nội ông có một khách sạn
nhỏ bên bờ sông Danube và sau đó để lại cho bố mẹ ông trông coi. Năm 1971 ông
di cư sang Tây Đức hành nghề họa sĩ. Trước khi đi, bà nội cho ông chiếc nhẫn
này nói là của một người lính Nga thế tiền thuê phòng khách sạn của bà trước
khi về nước. Bà nội ông nói chiếc nhẫn có thể mang lại may mắn cho ông. Nếu
không qua Đức bán đi cũng có ít Đức Mark mà xài.
Thời
gian đầu ông Kiss đeo chiếc nhẫn để cầu may như lời bà nội. Sau đó ông tháo cất
đi sợ nghề vẽ của ông làm dơ chiếc nhẫn. Ông vẫn thắc mắc về gốc gác của chiếc
nhẫn. Trên nhẫn có ghi dòng chữ “Mother
& Father to Davis C. Cox Greensboro, NC. 10-4-18-42” nên ông đề chừng rằng
nó là của một quân nhân Mỹ.
Ông
Kiss nói với Mark Turner: “Ông có thể giúp tôi tìm ra chủ của chiếc nhẫn hay ít
nhất là thân nhân của ông ta không ?”
Ông Turner hứa sẽ làm.
Vào
Google trên máy điện toán, Mark Turner tìm thấy một luận án cao học của ông
Norwood McDowell viết về hành động anh hùng của một phi đội do Thiếu úy Cox chỉ
huy trong thế chiến 2, trong đó vỏn vẹn có 4 dòng nói về chiếc nhẫn và hai thỏi
kẹo chocolat . Mark Turner E-mail hỏi
ông McDowell có biết ông David C. Cox hiện ở đâu không và ông McDowell cho biết
ông là con rễ của David Jr. con trai của Thiếu úy Cox trong luận án, và nói luận
án của ông dựa vào cuốn nhật ký chiến tranh của David Cox cha để lại sau khi
qua đời. Mark E-mail cho David Cox Jr. kể tự sự chiếc nhẫn ông đang có trong
tay. Cox Jr. thuật lại rằng, “đọc mail tôi thấy lạnh người, tưởng là mộng mị.
Tôi không tin mắt mình.”
Để
kiểm chứng hai bên E-mail qua lại trao đổi hình của chiếc nhẫn thật và chiếc nhẫn giả. David Jr. giải thích
các con số chạm trên chiếc nhẫn là ngày sinh của cha và năm ông ấy nhận chiếc
nhẫn. Thiếu úy Cox sinh ngày 4 tháng 10
năm 1918. Trong một mail khác David Jr. gởi ông Kiss xin nhận lại chiếc nhẫn và
bồi hoàn theo thời giá. Ông Kiss từ chối không nhận tiền bồi hoàn kể cả lệ phí
bưu điện.
Hai
tuần sau, ngày 16/8/2013 David Jr nhận được chiếc nhẫn trong một chiếc hộp.
Ngày mở hộp David Jr gọi đủ vợ con, gia đình em gái gồm Joy, chồng, 3 con và ba
nhà báo. Người em trai đã chết năm 1999 vì chứng nghiện rượu. Ông run run kéo
chiếc nhẫn ra khỏi lớp giấy bọc sau cùng, trong khi em gái ông kêu lên “đẹp và
kỳ diệu quá!” qua nước mắt.
David
nói : “Cha tôi thấy chiếc nhẫn này lần cuối cùng khi trao nó qua hàng rào giây
kẽm gai. Phải chi ông còn sống để thấy nó trở về như chuyện trong mơ!”
David
chưng hai chiếc nhẫn thật và giả trong tủ kính nơi phòng khách. Thỉnh thoảng
ông mang ra cho bạn bè thân thiết xem và nói ông sẽ giữ nó cho con cháu như bằng
chứng của một phép lạ.
David
tâm nguyện khi điều kiện cho phép ông sẽ sang Đức thăm hai cặp vợ chồng tốt bụng
Mark-Mindy và Martin-Regina. Ông nói món quà tôi sẽ mang theo là kẹo chocolat ./.
Trần Bình Nam thuật
Nov. 12, 2014