Đọc “Sự thật Hải chiến
Hoàng Sa”
của Thềm Sơn Hà
Trần
Bình Nam
Thềm Sơn Hà, sĩ quan hải
quân khóa 17 trường Sĩ quan Hải quân Nha Trang, vừa giới thiệu cuốn sách ông viết
về trận hải chiến Hoàng Sa nhan đề “Sự
thật Hải chiến Hoàng Sa 19 tháng 1 năm 1974” tại phòng sinh hoạt nhật báo
Người Việt hôm Chủ nhật 11 tháng 12 , 2014. Thời điểm giới thiệu cuốn sách đúng
lúc để đánh dấu kỷ niệm 41 năm tròn của trận hải chiến.
Cuốn sách được tiến sĩ
Nguyễn Thanh Liêm, nguyên thứ trưởng bộ Giáo Dục VNCH viết lời giới thiệu, và
cũng chính ông đích thân giới thiệu trong buổi ra mắt cuốn sách.
Từ lúc cuộc chiến xẩy ra đã có nhiều bài viết và
nhiều cuộc phỏng vấn các nhân vật liên hệ bởi các chương trình Việt ngữ của các
đài nước ngoài. Người được phỏng vấn nhiều nhất là Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại,
người có trách nhiệm về trận đánh. Năm 2010 Ủy Ban Hoàng Sa do cựu Thiếu Tá
Hải Quân Trần Trọng Ngà (Khóa 12 SQ/HQNT) làm Trưởng Ban cùng với 7 Ủy
viên khác đều là cựu sĩ quan hải quân cho xuất bản cuốn Hải Chiến Hoàng Sa.
Cho đến năm 2010, cuốn Hải Chiến Hoàng Sa là tài liệu đầy đủ
và nghiêm túc nhất về trận hải chiến lịch sử này. Chỉ có một thiếu sót là không
có những tài liệu còn bảo mật về phía Hoa Kỳ.
Cuốn sách của ông Thềm
Sơn Hà bổ túc sự thiếu sót này. Trong Lời
Mở Đầu của cuốn sách ông Thềm Sơn Hà viết : “Tôi đã quyết định tu chính lại
tất cả các bài tôi đã viết liên quan đến trận hải chiến Hoàng Sa để in thành
sách với tựa đề “Sự Thật Hải chiến Hoàng
Sa”, sau khi nhận được tài liệu cuối cùng mà tôi đã chờ đợi sau gần 9 năm
yêu cầu các cơ quan thuộc chánh phủ Hoa Kỳ cung cấp dựa trên đạo luật FOIA
(Freedom of Information Act). Và đó là phần giá trị nhất của cuốn sách “Sự Thật
Hải chiến Hoàng Sa”.
Tuy nhiên tôi có cảm tưởng
rằng có nhiều điều qua các tài liệu mật tác giả có được do bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
cung cấp tác giả thấy hoặc thoáng thấy nhưng không tiện viết ra.
1.
Câu chuyện của ông đại úy Gerald Kosh người được tòa tổng lãnh sự
Hoa Kỳ ở Đà Nẵng gởi theo tàu hải quân ra Hoàng Sa và có mặt tại đó khi trận
đánh diễn ra vẫn úp úp mở mở. Sau khi đượcTrung quốc trả tự do ông ta có viết một
báo cáo dài, nay đã được công bố không thấy tác giả ghi lại. Mặc dù bộ Ngọai
giao Hoa Kỳ đã phủ lên câu chuyện ông Kosh lờ mờ như chuyện đi chơi, nhưng ai
cũng biết ông có một vai trò tình báo.
2.
Tác giả không nói rõ việc
Hoa Kỳ không cứu vớt thủy thủ HQVN trôi dạt trên biển, một thái độ khó biện
minh đối với một đồng minh.
3.
Tác giả có ghi lại sự kiện các phi đội Không quân VN vào ngày
21/1/1974 đã sẵn sàng tại căn cứ Không quân Đà Nẵng để ra Hoàng Sa oanh tạc các
đơn vị Trung Cộng chiếm đóng đảo và sau đó lệnh hành quân được hủy bỏ. Tác giả
không nói lý do tại sao hủy bỏ.
4.
Ngày 23/1/1974 TT Nguyễn Văn Thiệu gởi thư yêu cầu TT Nixon yểm
trợ “vật chất và chính trị” trước biến
cố trên Biển Đông. Sự yêu cầu này nhắm tới ý của TT Thiệu muốn chiếm một số đảo
tại Trường Sa. Mấy tuần sau ông đại sứ Martin đã đến trả lời miệng rằng Hoa Kỳ
không tán thành những gì TT Thiệu định làm vì e ngại những phản ứng không kiểm
soát được của Trung quốc trong đó có vấn đề Hoa Kỳ đang vận động thả tù nhân Mỹ,
Việt bị Trung Quốc bắt tại Hoàng Sa. Tại sao Hoa Kỳ quá lo lắng về phản ứng của
Trung Quốc như vậy? Giả thuyết là có một sự sắp xếp giữa hai bên “trên đầu của VNCH” và có thể cả “trên đầu của chính phủ Cộng sản tại Hà Nội”.
5.
Sự sắp xếp đó có thể thấy qua cuốn hồi ký chính trị "Years of Upheaval" (Những
Năm Tháng Biến Động) của ông Henry
Kissinger. Ông Kissinger (lúc đó là bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ) thuật lại
rằng trong chuyến công du Trung quốc ngày 10 tháng 11 năm 1973 để thảo luận
tình hình thế giới với hai ông Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông, hai bên quan tâm
nhất đến sự bành trướng thế lực của Nga Xô. Ngoại trưởng Kissinger viết, trong
một cuộc thảo luận giữa ông với hai ông Chu và Mao, Mao đồng ý với nhận định của
ông Chu rằng Nga xô là mối đe dọa lớn nhất của Trung quốc [Mao went along cheerfully with Zhou’ s implications that the Soviets
were now the principal threat... (“Years of Upheaval”, trang 689) ]. Trước
đó trong một đoạn tóm tắt mục đích và kết quả của chuyến công du ông Kissinger
viết rằng quan tâm chung của ông và ông Chu là tình hình thế giới. Ông cho biết
báo chí quốc tế tường thuật chuyến công du của ông tại Trung quốc không thuận
buồm xuôi gió vì vấn đề Đài Loan, nhưng thực ra đây là chuyến đi thành công nhất
của ông. Hoa Kỳ và Trung quốc đã đạt đến một cái nhìn chung làm cho hai nước thắt
chặt mối thân hữu, và vì những lý do tế nhị đối với Nga Xô không thể tiết lộ được.[Following the now well-established practice
the heart of the visit was a detailed review of the international situation by
Zhou and me, together with our senior associates... Our ties were cemented not
by formal agreements but by a common assessment of the international
situation... Most of our conversations, as usual, traced our shared analysis of
the world situation, though for equally obvious reason of Soviet sensitivities
we could not announce that fact either (“Years of Upheaval”, trang 684) ].
Qua những dòng chữ trên, có lẽ có một thỏa thuận giữa Mao, Chu và Kissinger để
Trung quốc chiếm quần đảo Paracels của Việt Nam Cộng Hòa. Lúc đó Hoa Kỳ biết
trước sau Hà Nội cũng chiếm Nam Việt Nam và không muốn Liên bang Xô Viết qua đồng
minh Hà Nội dùng Hoàng Sa và Trường Sa dòm ngó eo biển Malacca. Trung quốc (đồng
minh chiến lược) đóng chốt ở Hoàng Sa chận đường Nga là một nước bài đắc ý của
Kissinger .
Các sự việc diễn ra sau
đó giải thích giả thuyết này. Một tháng sau khi ông Kissinger rời Bắc Kinh, hải
quân Trung quốc lén lút đổ quân lên chiếm một số đảo trong quần đảo Paracels.
Và trong trận đụng độ giữa hải quân Trung quốc và hải quân Việt Nam Cộng Hòa
ngày 19/1/1974 hạm đội 7 của Hoa Kỳ đứng né ra ngoài. Hạm đội Hoa Kỳ tránh cả
việc cứu vớt thủy thủ Việt Nam bị trôi dạt trên biển dù có lời yêu cầu chính thức
của Việt Nam Cộng Hòa. Hải quân Trung quốc sau khi đánh bại hạm đội Việt Nam Cộng
Hòa đã không truy kích để cho hạm đội VNCH an toàn trở về căn cứ Đà Nẵng (xem
bài Trận hải chiến lịch sử Hoàng Sa của
đại tá Hà Văn Ngạc). Nhưng Hoa Kỳ đã can thiệp để các thủy thủ và quân nhân bị
bắt được đối đãi tử tế và trả về trong một thời gian ngắn. Riêng ông Kosh nhân
viên tình báo Hoa Kỳ tháp tùng quan sát bị bắt cũng được trả tự do trong vòng một
tháng. Bài viết của đại tá Hà Văn Ngạc ghi nhận rằng trong thời gian trước khi
hai bên nổ súng Trung quốc hết sức hòa hoãn. Có lẽ Trung quốc nghĩ rằng Hoa Kỳ
sẽ thuyết phục được Việt Nam Cộng Hòa bỏ quần đảo Paracels. Khi hải quân Việt
Nam đổ bộ lên tái chiếm các hòn đảo nhỏ chung quanh đảo Hoàng Sa mà Trung quốc
đã chiếm mấy tuần trước đó họ đã bỏ đi không chống cự. Nhưng sau khi biết Hoa Kỳ
không thuyết phục được tổng thống Thiệu bỏ Paracels, Trung quốc dùng sức mạnh.
Cũng còn những góc khuất
về trận Hoàng Sa chưa có tài liệu nghiên cứu đến. Vai trò của Đô Đốc Trần Văn
Chơn, Tư lệnh Hải Quân chẳng hạn. TT Thiệu có thảo luận trực tiếp với ông
không? Bộ Quốc Phòng có chỉ thị gì
không? Và trong ngày 19/1 khi súng nổ ngoài Hoàng Sa ông đang làm gì? Vai trò của ông Tư Lệnh Hải quân trong trận hải
chiến hết sức lờ mờ. Hình như ông muốn tránh ra ngoài cuộc chiến. Với quan hệ gần
như huynh đệ với Đô Đốc Zumwalt thời gian ông Zumwalt làm cố vấn cho HQVN trong
giai đoạn Việt Nam hóa chiến tranh, có thể Đô Đốc Chơn biết Hoa Kỳ có chương
trình bỏ Hoàng Sa cho Trung Quốc, và không muốn làm gì để trái với kế hoạch của
Hoa Kỳ mà trên thực tế ông biết cưỡng lại cũng không được.
Ông Thềm Sơn Hà trong
cuốn Sự Thật Hải chiến Hòang Sa
không đặt bất cứ một câu hỏi nào về cách hành xử và thời biểu làm việc khó hiểu
của ĐĐ Chơn trong ngày 19/1. Ông chỉ nêu
ra một sự việc do Đại úy Lê Văn Thự (trùng tên với Trung Tá Lê Văn Thự, hạm trưởng
HQ 16, một trong những chiến hạm tham chiến trận Hoàng Sa) Trung Tâm trưởng
Trung tâm Hành Quân Vùng 1 Duyên Hải thuật lại là ĐĐ Chơn đã khóc khi được báo
cáo HQ 10 chìm, hạm trưởng Ngụy Văn Thà tử thương.
Một vấn đề khác là viết
từ miền Nam và hải ngoại các nhà báo thường mô tả trận Hoàng Sa là một trận chiến
oai hùng của chiến sĩ Hải quân Việt Nam hy sinh để bảo vệ bờ cõi mà không đào
sâu về những khiếm khuyết khác. Cuốn sách của ông Thềm Sơn Hà cũng không đi ra
ngoài thông lệ đó.
Đầu năm 2014 kỷ niệm 40
năm trận Hoàng Sa, ông Bill Hayton, một nhà sử học làm việc cho đài BBC của Anh
xuất bản cuốn “The South China Sea”
trong đó ông miêu tả lại với khá đầy đủ chi tiết trận hải chiến Hoàng Sa. Trước
khi cuốn sách được chính thức xuất bản ông Hayton viết một tài liệu tóm tắt các
diễn biến chung quanh trận đánh phổ biến (ngày 2/2/2014) trên BBC Việt ngữ
online.
Ông viết: “Nhân
kỉ niệm lần thứ 40 vừa qua, đã có hàng loạt các bài báo viết về trận hải chiến
Hoàng Sa 19/1/1974 và lòng dũng cảm của quân Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Tuy vậy,
lại có ít thảo luận về điều thực sự diễn ra trong trận chiến”. Và sự thật qua sự nghiên cứu của ông Bill Hayton trận hải chiến Hoàng
Sa không phải là màu hồng.
Ông kết luận “Đánh
giá một cách khách quan, trận chiến là một thảm họa, tuy nhiên những lính quay
trở về được chào đón như những người hùng. Truyền thông Nam Việt Nam được kể lại
rằng đội tàu VNCH đã làm chìm hai tàu và ngăn cản được hạm đội Trung Quốc lớn
hơn nhiều lần. Trận chiến được thêu dệt ly kì như huyền thoại vào đúng dịp Tết.
Nhưng trên thực tế, đó lại là một thảm họa”
Bài viết của ông Hayton
đã tạo ra nhiều phản ứng trong giới Hải quân VNCH từng nghiên cứu về trận Hoàng
Sa, cho rằng ông Hayton có ý mạ lỵ Hải quân VNCH. Lối hành văn của ông Bill
Hayton có vẻ châm biếm, nhưng sự thật lịch sử của nó vẫn cần được quan tâm .
Với cuốn Sự Thật Hải chiến Hoàng Sa ông Thềm Sơn
Hà đã làm một công việc đáng ca ngợi là đào sâu thêm vào biến cố Hòang Sa với
những tài liệu ông yêu cầu bộ Ngoại giao Hoa Kỳ (phải) cung cấp cho ông. Cuốn
sách là một thành công của tác giả mặc dù về phương diện trình bày ông đưa vào
quá nhiều chi tiết đặc tính của các chiến cụ (chiến hạm, máy bay …) không cần
thiết.
Và lúc này tác giả có
quyền theo chân Phạm Thái trong “Tiêu
Sơn Tráng Sĩ” chúc bầu rượu hát nghêu ngao:
Tầm tay ta với
không vừa.
Mộng
cao chi lắm, xin chừa từ đây .
Nước
sông có lúc vơi đầy,
Ta về
hưu, uống rượu say quên đời!
(Thơ Thềm Sơn Hà)
Sự Thật Hải chiến Hoàng Sa – Trang 4
Trần Bình Nam
Jan
. 17, 2015