Tám mươi năm (80) làm nhân chứng
cho một giai đoạn lịch sử Việt Nam (1)
Trần Bình Nam
Tôi sinh ngày 17 tháng 7 năm 1933. Đến ngày 17 tháng 7
năm 2013 tôi được 80 tuổi chẵn, tôi quyết định thôi không bàn về thế sự nữa và để thì giờ luận bàn về các vấn đề liên quan đến nhân sinh (*).
Tám mươi năm, một quảng đường dài và tùy theo hoàn cảnh của từng cá nhân và biến chuyển của xã hội có thể chỉ là một phút thoáng qua như một cái chớp mắt, nhưng cũng có thể là một cuộc sóng gió của một đời người .
Ai là người Việt Nam sinh ra và đã sống trong khoảng thời gian 80 năm đó đều phải trải qua những sóng gió lịch sử trên đất nước Việt Nam như tôi. Tôi sinh ra
khi người Pháp bắt đầu củng cố chế độ thuộc địa tại Đông Dương. Lớn lên được giáo dục nửa Tây nửa ta, trong khi toàn quốc đang kinh qua cuộc kháng chiến đánh đuổi người Pháp. Người Pháp thua trận rút về. Việt Nam chia đôi. Miền Bắc cho phe Cọng, miền Nam cho người quốc gia. Người Mỹ đến giúp người quốc gia chận đứng ý đồ xích hóa miền Nam của cọng sản. Chiến tranh dai dẳng kết thúc năm 1975 với phe cộng toàn thắng. Hằng trăm ngàn người từ miền Nam bỏ nước ra đi tìm tự do gây ra một làn sóng tị nạn lớn chưa từng có trong lịch sử Việt Nam.
Là một trong những thuyền nhân rời bỏ Việt Nam trong màn chót
của bi kịch Việt Nam, tám mươi năm qua tôi đã là một nhân chứng bất đắc dĩ cho thảm kịch Việt Nam .
Những gì tôi viết sau đây là lời một nhân chứng của một tấn thảm kịch mà trong đó những người thuộc thế hệ tôi từng chia sẻ. Lời chứng có thể vui hay buồn, có thể hợp nhĩ với lớp người này và không hợp nhĩ với lớp người kia tùy theo chỗ đứng của mỗi người, nhưng tôi bảo đảm một điều là tôi làm chứng cho sự thật ít nhất từ chỗ đứng của tôi.
** Trần Bình Nam **
***
Thiếu thời:
Dòng dõi họ Trần tôi xuất phát từ tỉnh Sơn Nam, Bắc Việt (nay là Nam Định, hướng đông nam thành phố Hà Nội 74km). Gia phả ghi rằng trong thập niên 1530s cố tổ tôi chống họ Mạc theo ông Nguyễn Kim vào Thanh Hóa,
và năm 1558 theo Nguyễn Hoàng (con Nguyễn Kim) đi sâu hơn vào miền Nam. Cố tổ tôi là sĩ quan cấp nhỏ của Chúa Nguyễn, được Chúa Nguyễn cấp ruộng đất tại làng Thành Trung
(cách Huế 30km) thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Thành Trung trở thành chánh quán của họ Trần Văn. Vào thế kỷ thứ 19, con cháu họ Trần đa số trở thành nông dân sống với ruộng đất.
Thập niên 1910, người Pháp mở trường Bá Công ở Huế (Bá Công là trăm nghề) để đào tạo cán sự trung cấp cho các ngành điện lực, điện thoại, điện báo, hỏa xa và hành chánh.
Ông nội tôi xin cho Ba tôi vào học trường Bá Công. Ở Huế Ba tôi gặp Mẹ tôi và hai người xây tổ ấm trên một khoảnh đất trong vườn nhà của ông ngoại tôi ở Phường Đúc. Ông ngoại tôi thuộc dòng quận công Lê Chất, một trong những viên tướng đã giúp vua Gia
Long đánh bại nhà Tây Sơn thiết lập nên triều đại nhà Nguyễn vào đầu thế kỷ 19.
Tôi là con út trong gia đình, sinh
ngày 17 tháng 7 năm 1933, có hai anh và hai chị. Ba tôi cho con trai đi học. Hai chị tôi ở nhà giúp Mẹ buôn bán và bếp núc theo truyền thống các gia đình Việt Nam thời đó. Hai chị tôi chỉ biết đọc chữ quốc ngữ .
Anh cả tôi, Trần Văn Bách bị lính Pháp bắn chết năm 1946 lúc 18 tuổi tại Bến Cát, Thủ Dầu Một khi Pháp theo chân
quân Anh trở lại Việt Nam sau một thời gian bị Nhật đảo chánh.
Thời gian “toàn quốc kháng chiến” bắt đầu từ cuối năm 1946, gia đình
tôi tản cư về Thành Trung. Đầu năm 1947 sau khi quân Pháp tái chiếm Huế, ba mẹ tôi hồi cư trở về Phường Đúc. Ba tôi làm nghề xây cất, Mẹ tôi buôn bán với chị áp tôi. Chị đầu đã đi lấy chồng. Tôi được vào học lớp nhất trường tiểu học Trần Quốc Toản .
Năm 1948 tôi thi đậu kỳ thi tuyển vào học trường Trung học Khải Định. Chương trình trung học gồm 7 năm và muốn tốt nghiệp trung học học sinh phải qua 3 kỳ thi. Kỳ
thi trung học sau 4 năm. Hai năm sau thi Tú tài I và năm cuối thi Tú Tài II.
Năm 1950 anh thứ nhì tôi, Trần Thanh Dương đi kháng chiến chống Pháp. Lúc đầu ra Vinh thuộc tỉnh Nghệ An học trung học, sau đó vào khu 5
thuộc tỉnh Bình Định. Sau khi ký hiệp định Genève, anh không ở trong thành phần tập kết ra Bắc, trở về Huế mang theo vợ và 4 con. Chị đầu tôi chết vì bệnh ung thư năm 1980. Hiện nay tôi còn một ông anh và một bà chị đều trên 80 tuổi. Anh tôi sống ở Nha Trang, chị tôi sống ở Huế .
Trong hai năm 1954-55, quân đội Pháp rút dần ra khỏi Việt Nam, người Mỹ đến giúp củng cố chế độ Ngô Đình Diệm. Ông Diệm đối mặt với nhiều khó khăn. Các giáo
phái Hòa Hảo, Cao Đài với sự tiếp tay của các tướng Nguyễn Văn Hinh, Nguyễn Vỹ thân Pháp hoạt động gây bất ổn tại Sài Gòn. Tuy vậy ông Diệm, với sự giúp đỡ của người Mỹ đã ổn định tình hình và định cư được khoảng một triệu người dân miền Bắc, đa số là tín đồ Thiên chúa giáo trốn chạy cọng sản. Ông Diệm tổ chức trưng cầu dân ý truất phế Bảo Đại, quốc trưởng bù nhìn do Pháp dựng nên và thành lập nước Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).
Năm 1954, sau khi đổ Tú tài I tại Huế, tôi vào Sài gòn
theo học trường Cao đẳng Vô Tuyến Điện, đồng thời tự luyện thi Tú Tài II để hoàn tất chương trình trung học.
Thời gian đó, thanh niên đến tuổi đều phải nhập ngũ nên học sinh lớp cuối trung học và đại học ai cũng tìm một đường để đi. Tôi thi đỗ kỳ thi tuyển của Hải quân VNCH tuyển mộ sinh viên sang học tại trường Hải quân Pháp. Chương trình này do người Pháp viện trợ. Cuộc tuyển mộ năm 1955 là cuộc tuyển mộ cuối cùng. Tôi theo học khóa đào tạo kỹ sư Hải quân. Chương trình học 3 năm. Hai năm đầu học tại trường Sĩ Quan Hải quân ở Brest, trong tỉnh Finistère, bên bờ Đại Tây Dương. Năm thứ ba các sinh viên,
lúc này đã lên Thiếu úy, sẽ được đi thực tập một năm trên chiến hạm Jeanne d’Arc chạy vòng quanh thế giới để các tân sĩ quan có
cơ hội tiếp xúc với các quốc gia khác.
Khóa tôi, học xong năm thứ hai cuối năm 1957 vào lúc
quan hệ giữa chính quyền VNCH và Pháp trở nên căng thẳng, Hải quân Pháp gởi trả chúng tôi về Sài gòn.
Tôi được bổ nhiệm đến Hải Vân Hạm Hát Giang (HQ 400). Vài tháng sau
chuyển qua Hộ Tống Hạm Đống Đa (HQ 03). HQ 03 sắp sửa đi Subic Bay, một căn cứ sửa chữa tàu bè của Hạm đội 7 Hải quân Hoa Kỳ để đại tu bổ.
Tháng 6 năm 1958, tàu còn ở Subic Bay, tôi được lệnh thuyên chuyển đến Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân tại Nha Trang
(TTHL/HQNT). Trung tâm huấn luyện này do Hải quân Pháp xây cất năm 1952 để đào tạo binh sĩ Hải quân gồm sĩ quan và thủy thủ các ngành chuyên
nghiệp để làm việc với Hải quân Pháp, và vừa được chính thức chuyển giao cho Hải quân Việt Nam. Trường SQHQ là một trong những trường thuộc TTHL/HQNT. Tháng 10 /1958 tôi đến đơn vị mới. Lúc đó trường đang huấn luyện khóa 8 SQHQ. Việt ngữ được dùng làm chuyển ngữ thay vì dùng chữ Pháp như các khóa trước. Cuốn “Danh từ Khoa học” Pháp ngữ - Việt ngữ của giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã
giúp chúng tôi nhiều trong việc biên soạn tài liệu huấn luyện. Nhưng các môn học Hải quân cần nhiều danh từ kỹ thuật hơn nên chúng tôi hết sức chật vật đánh đu với chữ nghĩa chuyên môn.
Tôi phục vụ Hải quân 16 năm và làm việc liên tục tại TTHL/HQNT 13 năm, dưới quyền của 8 trong 9 vị Chỉ huy trưởng của Trung tâm từ ngày thành lập cho đến khi kết thúc chiến tranh (**). Tôi
đến Nha Trang với cấp Thiếu úy và giải ngũ ở cấp Trung Tá năm 1971 sau khi đắc cử dân biểu đại diện thành phố Nha Trang tại Quốc hội VNCH khóa 2.
Tôi kết hôn với Nguyễn Thị Phương Thảo năm 1959 và lúc giải ngũ tôi có 5 người con: 2 trai, 3 gái
tất cả đều sinh ra và lớn lên tại Nha Trang.
Tại Quốc hội
Bản Hiến pháp Đệ nhị Cộng hòa công bố ngày 18/3/1967 ấn định tổ chức bầu cử Tổng thống và Thượng nghị viện, Hạ nghị viện vào cuối năm. Hai tướng Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ ra ứng cử trong một liên danh tổng thống - phó tổng thống và đắc cử nhiệm kỳ 1967-1971. Ông Kỳ chịu đứng phó cho ông Thiệu với lời hứa của ông Thiệu giao Quốc hội cho Kỳ kiểm soát. Kỳ định dùng Quốc hội xây dựng thế chính trị cho mình, nhưng sau đó Thiệu đã khéo léo lấy hết quyền của Kỳ. Vào cuối nhiệm kỳ 1967-1971 Thiệu nắm chắc hành pháp trong tay và đàn em của Thiệu trong Quốc hội cũng lấn áp ảnh hưởng của Kỳ.
Tại Quốc hội tôi gia nhập khối đối lập Dân Tộc Xã Hội (DTXH) . Khối DTXH gồm hai nhóm chính trị: Dân Tộc và Xã Hội. Nhóm Xã Hội thành lập trong pháp nhiệm 1967-1971 gồm các đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) do dân biểu Phan Thiệp cầm đầu và một số dân biểu độc lập có khuynh hướng Phật giáo và một vài dân biểu khác trong vùng Sài
gòn, Gia Định như bác sĩ Hồ Văn Minh, nhà báo Hồ Ngọc Nhuận … Nhóm Xã Hội chống khuynh hướng độc tài của tổng thống Thiệu .
Nhóm Dân Tộc gồm các dân biểu được giáo hội Phật giáo ủng hộ. Giáo hội Phật giáo tẩy chay cuộc bầu cử quốc hội năm 1967, nhưng quyết định tham dự cuộc bầu cử năm 1971 và giúp 19 dân biểu đa số gốc miền Trung vào quốc hội, trong đó có tôi đắc cử tại thị xã Nha Trang. Hai dân
biểu uy
tín nhất là Lê
Đình Duyên và Lý Trường Trân.
Hai nhóm Xã Hội và Dân Tộc là nòng cốt của khối đối lập DTXH gồm 29 dân biểu. Trong khối còn có các dân biểu thuộc nhóm tướng Dương Văn Minh như Hồ Ngọc Nhuận, Hồ Văn Minh, Nguyễn Hữu Chung, Lý Quý Chung và
3 dân biểu độc lập: Trần Văn Tuyên ở Sài gòn, Đinh Xuân Dũng
ở Phan
thiết và Trần Cao Đễ ở Vũng Tàu .
Lúc
đầu, giáo
hội Phật Giáo định ủng hộ Lê Đình Duyên làm trưởng khối. Duyên là con trai của bác sĩ Lê Đình Thám,
người chấn hưng phong trào Phật giáo tại miền Trung trong thập niên 1930. Các nhà lãnh đạo Phật giáo như Thượng tọa Thích Trí Quang, Thích
Thiện Minh
và hấu hết các nhà lãnh đạo Phật giáo đương thời đều do chương trình chấn hưng của bác sĩ Thám đào tạo .
Nhưng sau
cùng các vị lãnh đạo Phật giáo ủng hộ luật sư Trần Văn Tuyên làm trưởng khối. Tuyên sinh năm 1913 tại tỉnh Tuyên Quang, Bắc Việt, phía bắc Hà Nội 128 km. Ông gia nhập VNQDĐ năm 16 tuổi,và sau khi tốt nghiệp cử nhân luật tại Hà Nội ông được bổ nhiệm tri huyện tại tỉnh Tuyên Quang. Nhưng ông
từ chức sớm về Hà Nội dạy học tại trường trung học tư thục Thăng Long. Ông Võ
Nguyên Giáp đang dạy Sử tại đó và hai người quen biết nhau. Nhưng hai người đi theo hai con đường chính trị khác nhau và trở thành địch thủ nhau cho đến năm1975, Giáp trở thành kẻ chiến thắng, Tuyên chết trong tù. Tuyên là một trong những nhân vật ký tên vào bản Tuyên ngôn Caravelle
năm 1960 (2) kêu gọi tổng thống Ngô Đình Diệm cải tổ và bị ông Diệm cầm tù.
Sau khi Diệm bị lật đổ, ông Tuyên trở thành Phó thủ tướng cho Thủ tướng Phan Huy Quát. Nhưng chỉ trong 4 tháng (tháng 2 đến tháng 6- 1965), Quát không chịu nổi áp lực của quân nhân từ chức trao quyền cho các ông tướng. Tuyên trở về hành nghề luật sư, sau đó được bầu làm thủ lãnh Luật sư đoàn. Ông ra ứng cử dân biểu nhiệm kỳ 1971-1975 và đắc cử tại Saigon – Gia Định đại diện hai Quận 1 & 3.
Quyết định ủng hộ ông Tuyên làm trưởng khối DTXH là một quyết định chính trị khôn khéo của giáo hội Phật giáo. Tuyên đã gíúp giữ cho khối đối lập không tan rả trước nhiều lực xâu xé. Trước hết, tổng thống Thiệu không muốn làm việc với đối lập mà ông cho là thân Cộng; thứ hai là nỗ lực của cọng sản độn nhập vào để thao túng; và sau cùng Hoa Kỳ không có một chương trình giúp xây dựng dân chủ vì mục tiêu của Hoa Kỳ vào thời gian đó là chấm dứt chiến tranh và rút quân.
Trong nhiệm kỳ 1967-71 Thiệu gạt bỏ ảnh hưởng chính trị của Kỳ. Trong nhiệm kỳ 2 (1971-75) Thiệu chọn ông Trần Văn Hương đứng phó. Hương là một giáo sư trung học, nguyên hội trưởng Hội Hồng Thập Tự Việt Nam và có thời làm Đô trưởng Sài gòn. Ông Hương có uy tín với nhóm Liên trường, gồm các cựu học sinh các trường Trung học lớn ở Nam bộ. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1971, liên danh Thiệu – Hương ra tranh cử một mình vì vào phút chót cả hai ứng cử viên Dương văn Minh và Nguyễn Cao Kỳ đều rút tên. Tuy nhiên với sự ủng hộ của Hoa Kỳ, ông Thiệu vẫn theo đường lối cứng rắn.
Lập trường của khối DTXH đối với cuộc thương thuyết tại Paris là đạt được một thỏa ước chính trị dựa trên nguyên tắc dân tộc tự quyết để nhân dân miền Nam tự chọn lấy chế độ chính trị của mình. Nhưng Tuyên biết sự việc không đơn giản như vậy. Ông nghi ngờ chương trình thương thuyết của tổng thổng Nixon và bộ trưởng Ngoại giao Henry Kissinger.
Năm 1972 ông Ronald Reagan có công việc riêng tạt qua Sài gòn đến thăm Tuyên để đáp lễ chuyến thăm của Tuyên năm 1965 tại Sacramento. Năm 1965 Tuyên là Phó thủ tướng đi công cán và ông
Reagan đang làm thống đốc bang California. Trong một buổi họp Khối Tuyên cho biết ông Reagan hỏi theo ý ông thì nên chấm dứt cuộc chiến Việt Nam bằng cách nào. Qua câu chuyện với ông Reagan Tuyên có cảm tưởng Hoa Kỳ sẽ đi đến một thỏa ước chấm dứt chiến tranh bất lợi cho VNCH. Khối DTXH ủng hộ lập trường của tổng thống Thiệu là không chấp nhận một thỏa ước không có điều khoản buộc quân đội Bắc việt phải rút về miền Bắc cùng một lúc với quân đội Hoa Kỳ và đồng minh.
Tuy nhiên dưới áp lực cắt viện trợ đi đôi với lời hứa của tổng thống Nixon sẽ can thiệp quân sự mạnh mẽ - nếu Hà nội vi phạm thỏa ước tung quân đánh miền Nam - Thiệu miễn cưỡng đồng ý ký Hiệp định Paris ngày 27/1/1973. Hiệp định không bắt buộc quân đội Bắc Việt rút quân.
Trước Tết Nguyên Đán Quý Sửu, nhằm ngày 2/2/1973 khối DTXH tuyệt thực trước thềm quốc hội phản đối Hoa Kỳ ký kết hiệp định Paris. Tuyên nói Hiệp định này sẽ làm miền Nam mất vào tay cọng sản. Về mặt thực tế, còn nước còn tát, Tuyên thuyết phục hai bên thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định, cho rằng đó là cách duy nhất để cứu miền Nam. Do đó khối DTXH ủng hộ và đứng ra thành lập Lực lượng Thứ ba tham gia Hội đồ