Chính sách ngoại giao của
tổng thống Obama
đối với Á châu
Lời
giới thiệu:
Trong khuôn khổ chuyến viếng thăm Hoa Kỳ vào tháng 9 này của ông Chủ tịch Nước
Trung quốc Tập Cận Bình, tạp chí Foreign
Affairs (số Tháng 9 & 10, 2015)
trích một phần trong cuốn sách “The
China Challenge: Shaping the Choices of a Rising Power” của giáo sư Thomas
J. Christensen chuyên giảng dạy khoa
“Chính trị thế giới về Hòa bình và Chiến tranh”
(World Politics of Peace and War) tại đại học Princeton. Giáo sư
Christensen còn là Phụ tá Bộ trưởng bộ Ngọai giao Hoa Kỳ đặc trách Đông Á sự vụ
từ năm 2006 đến 2008.
Bài
trích của giáo sư Christensen được Foreign
Affairs trình bày dưới tựa đề: Obama
and Asia: Confronting the China Challenge
**Trần Bình Nam** phóng dịch
Trung
quốc trổi dậy tạo ra hai câu hỏi: làm thế nào để Trung quốc không đe dọa sự ổn
định trong vùng Á châu - Thái bình dương và quan trọng hơn là để Trung quốc
đóng góp vào việc ổn định thế giới. Về quân sự Trung quốc chưa sánh được với Hoa Kỳ, nhưng cũng
đủ mạnh để đe dọa lực lượng quân sự của
Hoa Kỳ trong vùng Á châu –Thái bình dương. Và tuy Trung quốc còn đang phát triển
và có nhiều vấn đề nội bộ cần giải quyết bàn tay Trung quốc cũng không thể thiếu
đối với các vấn đề chung như sự lan truyền vũ khí nguyên tử, khí hậu toàn cầu
và vấn đề tài chánh thế giới. Vào cuối nhiệm kỳ 2 của tổng thống Bush, quan hệ
Trung quốc-Hoa Kỳ có vẻ êm êm. Qua thời tổng thống Obama, có thêm vài tiến bộ
trong quan hệ của hai nước, nhưng nói chung hiện nay quan hệ Trung quốc-Hoa Kỳ
căng thẳng hơn hồi năm 2009. Điều này không có nghĩa vì chính quyền Obama vụng
về, mà chính yếu do Trung quốc tạo ra nhiều hơn. Sau khi giải quyết vụ khủng hoảng
kinh tế cuối năm 2008 một cách gọn gàng hơn các nước Tây phương (Hoa Kỳ và Âu
châu) Trung quốc tự tin và do đó trở nên khó chơi hơn trước. Và chính quyền
Obama đã làm những gì cần làm để cho quan hệ Trung quốc-Hoa Kỳ dù có căng thẳng
cũng vẫn ở trong mức độ giải quyết được. Chính quyền tới (2017- 2020) dù là Dân
chủ hay Cộng hòa vẫn đối điện với hai vấn đề căn bản trên đối với Trung quốc và
do đó sự nghiên cứu về chính sách của tổng thống Obama đối với Á châu là một
nhu cầu cần thiết để hoạch định các đối sách mới.
**
Như
đã nói, sau khi vuợt qua khủng hỏang kinh tế toàn cầu cuối thập niên 2008 Trung
quốc trở nên tự tin hơn, nhưng Trung quốc vẫn không khỏi lo ngại nền kinh tế đặt
nặng vào xuất khẩu và bơm vốn vào mạch kinh tế quốc gia cũng không phải là một
chính sách lâu dài và đang tạo bất ổn trong xã hội. Nhu cầu làm thế nào để vừa
phát triển nhanh mà vẫn duy trì được sự ổn định buộc các nhà lãnh đạo Trung quốc
luôn luôn điều chỉnh chính sách kinh tế và quốc phòng. Nhu cầu này buộc Trung
quốc biểu lộ chủ quyền và sức mạnh quốc gia bằng những đòi hỏi chủ quyền trên
Biển Đông và trở nên thiếu uyển chuyển
trong các vấn đề quốc tế như giúp ổn định kinh tế thế giới, giải quyết vấn
nạn thời tiết, biện pháp trừng phạt các quốc gia bất trị và kiểm soát sự lan
tràn vũ khí nguyên tử.
Đứng
trước một quốc gia như vậy, tổng thống Obama vẫn tạo được thành quả là tăng cường
sự hiện diện và ảnh hưởng của Hoa Kỳ ở Á châu. Nhưng tổng thống Obama đã để hở
lưng ở những nơi quan yếu khác trên thế giới (TBN: “Assad phải đi” nhưng Assad cũng chẳng đi; “Syria xử dụng vũ khí hóa học là bước qua lằn gạch đỏ” nhưng qua lằn
gạch đỏ rồi cũng chắng thấy tổng thống Obama động tĩnh gì). Không tin vào lời của
ông Obama, Trung quốc càng dè dặt trong sự hợp tác với Hoa Kỳ.
Trong
suốt nhiệm kỳ 1 của tổng thống Obama, Hoa Kỳ nói nhiều đến chính sách xoay trục (pivot, có nghĩa là quay trở lại)
về Á châu trong khi đang rút quân ra khỏi Iraq và Afghanistan. Nhưng danh từ
“xoay trục về Á châu” có vẻ cường điệu
vì trên thực tế Hoa Kỳ chưa bao giờ rời khỏi Á châu – Thái bình dương. Các chuyển
dịch quân sự như gởi thêm tàu ngầm đến đảo Guam, gởi khu trục cơ F-22 đến Nhật,
gởi tàu tuần duyên trang bị vũ khí nặng đến Singapore, ký Thỏa ước thương mãi với
Nam Hàn, và vận động Thỏa ước mậu dịch TPP (Trans-Pacific Partnership
Agreement) gồm các nước ven Thái bình dương (nhưng không mời Trung quốc) đều được
bắt đầu từ chính quyền George W. Bush. Tổng thống Obama đã thêm vào các chính
sách trên một số hoạt động tích cực như gởi nhiều sứ giả (ngoại giao, quốc
phòng) đến thăm các nước Á châu – Thái bình dương, giúp cởi bỏ chế độ quân phiệt
tại Miến Điện, ký vào Thỏa ước giao hảo
và hợp tác Đông Á (Treaty of Amity and Cooperation in Southeast Asia – văn
kiện này là văn kiện khai sinh ra Hiệp hội ASEAN), tham gia các buổi họp thượng
đỉnh các nước Đông Á (East Asia Summit) và
Diễn Đàn ASEAN (Asean Regional Forum) biến hai tổ chức này thành những
diễn đàn thực chất bàn về các vấn đề an ninh và ổn định địa phương.
Tuy
nhiên các điều Hoa Kỳ đã làm được trong
7 năm qua không cần phải đặt trong chính sách “pivot” làm Trung quốc khó chịu
nghĩ rằng Hoa Kỳ có dụng ý bao vây mình.
Đối với chính sách xoay trục
các nước Đông Á vừa yên tâm vừa lo lắng. Lo vì Hoa Kỳ không dấu diếm sự kiện là
Hoa Kỳ hiện không có khả năng đương đầu hai mặt trận lớn trên thế giới một lúc.
Dựa hẵn vào Hoa Kỳ thì khi Hoa Kỳ vì nhu cầu mặt trận khác quan trọng hơn quay
lưng đi thì ai bảo vệ mình. Thấy cái chính sách pivot “chênh vênh” gần đây Hoa
Kỳ điều chỉnh dần và gọi là “rebalance” (chính sách tái cân bằng) . Pivot là nghiên hẵn về một phía, rebalance
là có tới có lui.
Về
chữ nghĩa trong văn bản thỏa thuận nhau, Hoa Kỳ còn hái thêm một bất lợi khác.
Tháng 11 năm 2009 khi tổng thống Obama công du Trung quốc, Hoa Kỳ ký với Trung
quốc một thông cáo chung cam kết tôn trọng quyền lợi bình thường của nhau. Nhưng
có một khoản ghi: “Hai bên đồng ý tôn trọng quyền
lợi cốt lõi của nhau là tối quan trọng trong quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung
quốc” (nguyên văn: The two sides agreed that respecting each other’s core interests is extremely important
to ensure steady progress in US-China relations). Trung quốc từng tuyên bố quyền
lợi cốt lõi của Trung quốc là (1) sự độc
quyền cai trị đất nước của đảng Cộng sản Trung quốc và (2) sự vẹn toàn lãnh thổ và lãnh thổ đối với
Trung quốc ngoài lục địa còn gồm Đài Loan, đảo Doaoyu (tên Nhật là Senkaku) và
Hoàng Sa, Trường Sa trong biển Đông. Dựa trên điều khoản thỏa thuận đó mỗi lần
Hoa Kỳ đòi cởi mở chính trị tại Trung quốc hay lên tiếng bàn về Biển Đông là
Trung quốc mang điều khỏa thỏa thuận kia ra để tố cáo Hoa Kỳ không tôn trọng cam
kết .
Sau
khi đắc cử, tổng thống Obama cho Trung quốc cái cảm tưởng là sẽ mềm mỏng hơn đối
với Trung quốc. Nhưng qua năm 2010 sau khi Hoa Kỳ tiếp tục các chính sách bình
thường như bán vũ khí cho Đài Loan, lên tiếng tố cáo Trung quốc không tôn trọng
quyền tự do trên mạng toàn cầu (internet freedom) và dự tính tiếp đức Đạt Lai Lạt
ma tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn, Trung quốc thất vọng và trở nên cứng rắn đối với
Hoa Kỳ.
Hiện
nay quan hệ Hoa Kỳ-Trung quốc căng thẳng hơn đầu năm 2009 nhưng tình hình này
do Trung quốc tạo ra hơn là do Hoa Kỳ. Năm 2010 khi Bắc Hàn hai lần gây sự với
Nam Hàn gây thương vong cho binh sĩ và thường dân Nam Hàn, Trung quốc bênh vực
Bắc Hàn tố cáo Hoa Kỳ và Nam Hàn là nguyên nhân của khủng hoảng. Kết quả của vụ
việc này là làm cho quan hệ giữa Hoa Kỳ,
Nhật và Nam Hàn trở nên khắng khít hơn, như hợp tác tình báo và tập trận chung
trong Hoàng Hải. Thấy bất lợi Trung quốc lùi bước và cuối năm đã khuyên Bắc Hàn
thận trọng.
Tháng
7 năm 2010 tại Hội nghị Điễn đàn địa phương ASEAN (ASEAN Regional Forum) ở Hà Nội
khi bà bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ Hillary Clinton tuyên bố rằng Hoa Kỳ không thiên về bên nào
trong việc đòi hỏi chủ quyền các hải đảo trên biển Đông, nhưng bà yêu cầu các
bên giải quyết các khác biệt trong tinh thần hòa bình và phải dựa các đòi hỏi của
mình căn cứ trên Luật Biển. Bà yêu cầu các nước Á châu hợp tác và tìm một thỏa
thuận chung trong cách ứng xử. Lập trường của Hoa Kỳ được các nước tham dự
trong đó có Việt Nam nhất loạt ủng hộ đã làm cho Trung quốc cảm thấy bị cô lập
và ông bộ trưởng ngoại giao Trung quốc đã phản ứng một cách giận dữ làm cho các
nước Đông Á ngao ngán và thấy có nhu cầu xích lại với nhau và xích lại gần Hoa
Kỳ hơn.
Tháng
9, quan hệ Trung quốc-Nhật bản căng thẳng
sau khi Nhật bắt giữ một thuyền trưởng
đánh cá Trung quốc cho là đánh cá trái phép trong vùng đảo Senkaku. Trung quốc
định làm dữ, và Hoa Kỳ cảnh giác Trung quốc bằng cách tái xác nhận lập trường của
Hoa Kỳ tuy không đứng về bên nào về quyền sở hữu, nhưng xác nhận Nhật đang quản
lý hành chánh đảo Senkaku, và Điều 5 của bản Thỏa ước An ninh Hoa Kỳ-Nhật được
áp dụng (TBN: Điều 5 của thỏa ước an ninh ràng buộc Hoa Kỳ bảo vệ Nhật nếu
Trung quốc tấn công Nhật bản. Mấy năm sau khi chính phủ Nhật mua lại của tư
nhân (Nhật) một số đảo nhỏ chung quanh, Trung quốc làm dữ cho dân chúng lục địa
biểu tình phản đối, tăng cường hoạt động của Không quân và Hải quân trong vùng
và thiết lập một vùng trời cấm bay tự do gọi là Air Defense Identificaion Zone
(ADIZ) phủ lên toàn bộ vùng tranh
chấp. Hoa Kỳ không đếm xỉa đến quyết định của Trung quốc và cho máy bay B-52
bay qua vùng ADIZ để bày tỏ thái độ. Trung quốc êm rơ. Tình hình mới làm cho Nhật
Bản thấy có nhu cầu hợp tác quân sự với Hoa Kỳ và căng thẳng chung quanh
Senkaku được lắng xuống. (TBN: xem tài liệu dịch thuật số 74 http://www.tranbinhnam.com/story/BanCoTayThaiBinhDuong.html)
Đối
với Philippines và Việt Nam, Trung quốc không nhường nhịn như đối với Nhật.
Trung quốc đơn phương chiếm bãi đá ngầm Scarborough, và năm 2012 thành lập khu
quản trị hành chánh để quản lý Hoàng Sa, Trường Sa và bãi Macclesfield.
Và
mới nhất là việc xây đắp quy mô biến một số đảo nhỏ và bãi đá ngầm thành những
căn cứ quân sự. Tháng 5/2015 tại hội nghị Shangri-La ở Singapore, ông Ashton
Carter, bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ đã lên tiếng cảnh cáo và yêu cầu Trung quốc
chấm dứt ngay những cuộc xây đắp không có thiện chí hòa bình đó.
Trước
thái độ “bắt nạt lân bang” của Trung quốc,
Hoa Kỳ đã kiên định lập trường bảo vệ sự
“tự do di chuyển” trong vùng trời và vùng biển trong Biển Đông và làm cho các
nước Đông Nam Á an tâm phối hợp nhau để chống lại áp lực của Trung quốc .
**
Về
quan hệ quốc tế liên quan đến sự kiểm soát sự phát triển vũ khí nguyên tử của Bắc
Hàn, Trung quốc không tỏ ra sốt sắng, lấy lý do Hoa Kỳ đã không tôn trọng thỏa
thuận với Gaddafi và khi ông ta chịu hủy bỏ chương trình nguyên tử thì cuối cùng bị lật đổ và giết chết. Trung
quốc tỏ ý không muốn can thiệp áp lực Bắc Hàn ngưng sản xuất vũ khí vì Liên hiệp
quốc và Hoa Kỳ không có chính sách nào bảo đảm an ninh cho lãnh tụ Kim
Jong-un. Đó là lý do Trung quốc tăng viện
trợ kinh tế để Bắc Hàn có thể đỡ đòn trừng phạt kinh tế của Hoa Kỳ. Riêng đối với quan hệ với Bắc và Nam Hàn, Tập
Cận Bình có vẻ muốn kềm chế Bắc Hàn hơn thời Hồ Cẩm Đào.
Từ
năm 2006 đến 2008 Trung quốc hợp tác với Liên hiệp quốc vận động Bắc Hàn ngưng
các chương trình nguyên tử, nhưng vào
năm cuối cùng của chính quyền Bush, cuộc thương thuyết bất thành. Những năm đầu
tổng thống Obama cứ để tình hình yên ắng như vậy. Mãi đến đầu năm 2012 tổng thống
Obama mới đưa ra những điều kiện dễ dàng hơn để tiếp nối cuộc thương thuyết. Nỗ
lực này tuy không thành, nhưng ít nhất tổng thống Obama đã tỏ ra mềm dẽo để qua
đó cải thiện quan hệ với Trung quốc.
Đối
với Iran, Obama tăng cường sức ép. Điều này làm Trung quốc khó chịu và phản ứng
bằng cách tăng mậu dịch và mua nhiều dầu hỏa của Iran. Các nước Âu châu cũng có
nhu cầu mua dầu của Iran và kết quả Iran không bị sức ép đủ để phải ký với Hoa Kỳ và Âu châu một
thỏa ước nguyên tử với điều kiện của Hoa Kỳ và Âu châu, là chương trình nguyên
tử của Iran phải nằm dưới sự kiểm soát của Cơ quan Nguyên tử năng quốc tế.
Khoảng
cuối thập niên 2000, Trung quốc thay đổi chính sách “không can thiệp” vào chuyện
nội bộ của các nước khác. Năm 2006 và 2007 Trung quốc đã áp lực Soudan chấp nhận
để một lực lượng Liên hiệp quốc đến duy trì hòa bình tại Darfur, và lần đầu
tiên Trung quốc gởi một đơn vị tham gia lực lượng này. Sau đó, năm 2009 Trung
quốc gởi một hải đội đến giữ gìn an ninh thủy vận trong Vịnh Aden chống hải tặc.
Sự hợp tác của Trung quốc đối với chính quyền Obama rõ nét nhất khi vào đầu năm
2011 tại Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc Trung quốc bỏ phiếu thuận đưa Lybia ra
tòa án quốc tế về vụ tàn sát những người tham dự cuộc nổi dậy mùa Xuân Arập chống
Gaddafi. Nhưng sau đó Trung quốc thất vọng khi NATO đã giúp thành phần nổi dậy
bắt và giết Gaddafi .
Trong
lĩnh vực kiểm soát độ nóng của khí quyển, Trung quốc sốt sắng hợp tác hơn. Năm
2014 tại Hội nghị Thượng đỉnh kinh tế Á châu – Thái bình dương (Asia-Pacific
Economic Cooperation – APAC), có sự tham dự của tổng thống Obama và Tập Cận
Bình, Trung quốc đồng ý giảm dần và (có thể) sẽ chấm dứt thải khí nhà kiếng vào
khí quyển vào năm 2030. Đồng thời Trung quốc hứa tiến hành ngay việc sản xuất
20% điện lực bằng nhiên liệu không thải khí. Đổi lại, Hoa Kỳ sẽ cắt 26% khí nhà
kiếng (so với mức đã thải ra năm 2005) vào năm 2026. Thỏa ước này mang lại nhiều
hy vọng cho hội nghị quốc tế về khí hậu vào cuối năm nay tại Paris. Còn nhớ tại hội nghị quốc tế về khí hậu năm 2009 tại
Copennagen, Trung quốc đã không hợp tác và mọi cuộc thảo luận đều không đi tới
đâu.
**
Dựa
vào thành quả và thất bại của chính quyền Obama, chính quyền Hoa Kỳ (sau cuộc bầu
cử tổng thống năm 2016) rút được bài học gì khi đối tác với Trung quốc để giải
quyết các vấn đề quốc tế?
Tại
Á châu Hoa Kỳ cần tăng cường sự hiện diện quân sự thế nào để Trung quốc không
thấy mình bị bao vây. Và trước khi tiếp cận Trung quốc về một vấn đề quan trọng
địa phương hay quốc tế, Hoa Kỳ cần vận động sự ủng hộ của đồng minh trước.
Trung quốc rất nhạy cảm khi phải chọn một thái độ làm mất lòng các nước có thể
trở thành bạn .
Điều
quan trọng là Hoa Kỳ cần nhận dạng Trung quốc đúng hình thù của nó: một cường
quốc, nhiều tự ái quốc gia, đang phát
triển với nhiều vấn đề nội bộ phải giải quyết. Hoa Kỳ cần đo lường đúng mức giới
hạn nào thì Trung quốc có thể chịu đựng được. Và trái lại Trung quốc cần phải
hiểu giới hạn kiên nhẫn của Hoa Kỳ (TBN: Việc Trung quốc tiếp tục xây dựng thêm
phi đạo và nới rộng các căn cứ trên các đảo nhỏ và mỏm đá ngầm trong vùng Trường
Sa, như các không ảnh tiết lộ ngày 15/9 vừa qua cho thấy - mặc dù trước đó hứa
sẽ ngưng - là một thách thức quan trọng đối với Hoa Kỳ.)
Trong
bối cảnh quân sự và ngoại giao hôm nay tại Á châu – Thái bình dương cũng
như trách nhiệm của Hoa Kỳ và Trung quốc
trước các vấn đề thế giới, một cuộc đụng độ quân sự giữa Trung quốc và Hoa Kỳ
là điều khả dĩ khó xẩy ra trong một tương lại gần (TBN: nhưng “gần bao nhiêu” lại là chuyện khó đoán của
tương lai)./.
Trần
Bình Nam phóng dịch
Sept . 26, 2015